Từ Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 và 80 năm “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”

Thứ hai - 27/02/2023 21:49
Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 được ví như tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta về văn hóa và cách mạng, có ý nghĩa khai sáng, mở đường cho cách mạng Việt Nam, nhất là lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; định hình những quan điểm, nguyên tắc cơ bản cho thời kỳ đó và tiếp tục được bổ sung, phát triển trong nhiều năm tiếp theo.
Đề cương về văn hóa năm 1943 như một ngọn đuốc, nền tảng để soi đường cho cả dân tộc chúng ta đi lên (ảnh Nam Nguyễn)
Đề cương về văn hóa năm 1943 như một ngọn đuốc, nền tảng để soi đường cho cả dân tộc chúng ta đi lên (ảnh Nam Nguyễn)

KHẲNG ĐỊNH TƯ DUY, TẦM NHÌN, TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH CỦA ĐẢNG VỀ CÁCH MẠNG VÀ VĂN HÓA

Xuất phát từ tình hình thế giới và trong nước, nhận rõ thời cơ để đánh đổ chế chộ thực dân - phát xít và bè lũ tay sai để lập nên chế độ dân chủ, cộng hòa, trong nhiều công việc quan trọng và cần kíp phải chuẩn bị và tiến hành, Đảng ta, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Tổng Bí thư Trường Chinh đã nhận rõ vai trò, đóng góp to lớn và quan trọng của văn hóa. Vì cách mạng là văn hóa, văn hóa là cách mạng, là đổi mới tận gốc rễ chế độ thực dân - phong kiến sang chế độ dân chủ, cộng hòa; loại bỏ chính sách ngu dân và nô dịch của thực dân - phát xít cũng như những khuynh hướng tư tưởng, văn hóa sai lầm để xây dựng một nền văn hóa mới, lớp người mới của chế độ mới.

Trong bối cảnh và những vấn đề nóng bỏng của đất nước, Tổng Bí thư Trường Chinh đã bắt tay khởi thảo Đề cương văn hóa Việt Nam. Dù mới ở tầm mức “đề cương”, nhưng Đề cương văn hóa đã chỉ rõ nguy cơ của nền văn hoá Việt Nam dưới ách đô hộ của thực dân - phát xít; phân tích mối quan hệ giữa cách mạng chính trị và cách mạng văn hoá; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng văn hoá; vạch ra phương hướng đấu tranh đúng đắn chống thực dân - phát xít và bè lũ tay sai, xây dựng đường lối văn hoá mới của Đảng, tập hợp các nhà văn hoá, trí thức, văn nghệ sĩ để tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Với Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943, lần đầu tiên Đảng Cộng sản Đông Dương đã nêu một văn kiện có tính chất như một cương lĩnh văn hóa; xác định nội dung, tính chất, tổ chức, định hướng phát triển của một cuộc cách mạng văn hóa chỉ có thể gắn với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và tương lai của nền văn hóa ấy sau khi cách mạng thành công. Phần “Cách đặt vấn đề” đã viết: “a. Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó người cộng sản phải hoạt động. b. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. c. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”; xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam (bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật) “… sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”(1). Sự nghiệp văn hoá là của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; tính chất nền văn hoá mới Việt Nam là dân tộc về hình thức, tân dân chủ về nội dung.

Đề cương Văn hóa cũng xác định rõ ba nguyên tắc “Dân tộc hóa”, “Đại chúng hóa”, “Khoa học hóa”. Đó là việc kế thừa, xây dựng và phát triển nền văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc, tự tôn văn hóa dân tộc, khắc phục tư tưởng tự ti, tự phụ; nâng cao lòng yêu nước, chí khí anh hùng, độc lập, tự do. Đó là những phẩm chất cao quý của con người Việt Nam: yêu nước, đoàn kết, dũng cảm, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đó là “tính đại chúng hóa”, nền văn hóa dân tộc do lớp lớp thế hệ người Việt Nam sáng tạo, xây đắp, bảo vệ, phát huy; nhận rõ và chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa xa rời hay gây hại đối với đông đảo quần chúng. Văn hóa mới, văn hóa cách mạng phải hướng mọi sáng tạo, mọi hoạt động phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Quán triệt sâu sắc tư tưởng nhân văn của Đảng, nghệ thuật vị nhân sinh; phản đối khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật xa rời thực tiễn, thủ tiêu hay sao nhãng ý chí đấu tranh cách mạng. Bảo đảm và nâng cao tính khoa học trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam, làm cho văn hóa không ngừng được khoa học hóa, tiên tiến hóa, chống lại những gì làm cho văn hóa/ sản phẩm văn hóa phản khoa học, phản tiến bộ; biết kế thừa, phát huy tinh hoa văn hóa nhân loại...

Đề cương Văn hóa đã khẳng định tư duy, tầm nhìn, trí tuệ, bản lĩnh của Đảng ta về cách mạng và văn hóa; như ngọn đèn pha soi rọi cho những người cộng sản và toàn dân nhìn thấy con đường mình đang đi và sẽ đi tới; động viên, thức tỉnh, dẫn đường giới trí thức, văn nghệ sĩ, những người nặng lòng với đất nước dấn thân cùng Đảng Cộng sản Đông Dương để cứu nước, cứu dân, hăng hái tham gia mặt trận văn hóa, tư tưởng; không bi quan, dao động, không bị ru ngủ bởi luận điệu và luận thuyết sai trái, lừa gạt của chế độ phát xít - thực dân - phong kiến, của Tờ-rốt-kít; khẳng định: “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”(2).

Trong dịp kỷ niệm 40 năm Đề cương Văn hóa Việt Nam (1943-1983), Tổng Bí thư Trường Chinh cho rằng: “Vì trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam… Nhưng Đề cương Văn hóa đã thu tóm được những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong điều kiện lúc đó của Việt Nam”(3). Theo đó, vận dụng và bổ sung, phát triển những tư tưởng, quan điểm, nội dung của Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 cần phải dựa trên quan điểm Mác-xít, lịch sử cụ thể, biện chứng để thấy những mặt mạnh, những đóng góp quan trọng cần tiếp tục phát huy và cả những hạn chế, bất cập để điều chỉnh phù hợp.

SỰ PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HÓA 80 NĂM QUA

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Trong phiên họp đầu tiên của Hội Đồng chính phủ (ngày 3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hoá, đó là diệt giặc dốt và giáo dục tinh thần cho nhân dân(4).

Đường lối văn hoá kháng chiến dần hình thành trong Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, ngày 25/11/1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng; thể hiện rõ trong bức thư về “Nhiệm vụ văn hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay” của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16/11/1946.

Trong thế nước “ngàn cân treo sợi tóc”, cả dân tộc phải dồn sức chống lại giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất khai mạc ngày 24/11/1946 tại Nhà hát Lớn Hà Nội với hơn 200 đại biểu tham dự. Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”. Từ cách đặt vấn đề “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”, Người nhấn mạnh: “Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ… Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do… có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình”. Người khẳng định một chân lý: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”(5).

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương của Việt Nam đã vượt ra khỏi ranh giới quốc gia để trở thành di sản văn hóa chung của cả nhân loại. Ảnh minh họa
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương của Việt Nam đã vượt ra khỏi ranh giới quốc gia để trở thành di sản văn hóa chung của cả nhân loại. Ảnh minh họa

Tháng 3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tài liệu “Đời sống mới” giải thích rất dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong đường lối, chủ trương về văn hoá của Đảng và Nhà nước ta. Từ ngày 16 - 20/7/1948, tại Việt Bắc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ hai. Trong thư gửi các đại biểu tham dự Hội nghị, Người nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc vĩ đại của dân tộc ta, văn hoá gánh một phần rất quan trọng. Từ ngày chính quyền dân chủ thành lập đến nay, các nhà văn hoá ta đã cố gắng và đã có thành tích. Song từ nay trở đi chúng ta cần phải xây dựng một nền văn hoá kháng chiến kiến quốc của toàn dân”(6).

Ngày 18/7/1948, Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày Báo cáo quan trọng tại Hội nghị với tên gọi “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam”. Báo cáo hệ thống hóa, cụ thể hoá và phát triển các quan điểm, nguyên tắc, phương châm của Đề cương Văn hoá năm 1943, có giá trị như là cương lĩnh văn hoá của Đảng thời kỳ kháng chiến, kiến quốc. Báo cáo nhấn mạnh 6 nhiệm vụ chủ yếu của văn hóa: 1) Xác định mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động văn hoá cứu quốc; 2) Xây dựng nền văn hoá dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc này là dân tộc, dân chủ; 3) Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học, trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ; 4) Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới; 5) Phát triển cái hay trong văn hoá dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ bại, ngăn ngừa sức thâm nhập của tàn dư văn hoá thực dân, phản động, học cái hay, cái tốt của văn hoá thế giới; 6) Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến kiến quốc và cho cách mạng Việt Nam.

Ba ngày sau Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ hai là Hội nghị Văn nghệ toàn quốc được tổ chức từ ngày 23 - 25/7/1948 với hơn 80 văn nghệ sĩ từ các nẻo đường kháng chiến trong cả nước tham dự. Tại sự kiện này, Hội Văn nghệ Việt Nam được thành lập, là sự tiếp nối tốt đẹp Hội Văn hoá cứu quốc được thành lập năm 1943. Lãnh đạo Hội và Ban chấp hành của Hội ra mắt, với sự tham gia lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng, Trưởng ban Tuyên truyền của Trung ương; đồng chí Tố Hữu được Trung ương giao trực tiếp tổ chức chỉ đạo công tác văn nghệ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có những ý kiến chỉ đạo mang tính chiến lược về đường lối văn hóa, văn nghệ. Người nhấn mạnh và khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”(7); “Văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”; “Chính trị, kinh tế, văn hóa đều phải coi là quan trọng ngang nhau”(8). Ở thời kỳ ấy, một số hội nghị về văn hóa, văn nghệ được tổ chức để bàn thảo những vấn đề cấp bách đang đặt ra: Hội nghị văn nghệ bộ đội (4/1949), Hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc (9/1949), Hội nghị tranh luận sân khấu ở Việt Bắc (5/1950), Hội nghị cán bộ văn nghệ Nam Bộ (1/1951).

Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, đồng bào, chiến sỹ miền Nam tiếp tục  đấu tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, nhiều bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về văn hóa, văn nghệ được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, trong đó có Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi các Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II (1957), lần thứ III (1962). Văn kiện Đại hội III của Đảng (9/1960) xác định đường lối xây dựng nền văn hoá có nội dung XHCN và tính dân tộc. Trong tiến trình xây dựng CNXH, Đảng xác định văn hoá, tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời và gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hoá, tư tưởng, xây dựng nền văn hoá XHCN mang đặc trưng dân tộc, khoa học, đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ sung trong những năm đầu cả nước đi lên CNXH.

Sau ngày thống nhất đất nước, Đại hội IV của Đảng (12/1976) xác định xây dựng con người mới, nền văn hoá mới; tiến hành đấu tranh chống tư tưởng và sản phẩm văn hoá phản động, độc hại. Đại hội V của Đảng (3/1982) chỉ rõ nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung XHCN và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đại hội V nêu rõ nội hàm khái niệm “Con người mới xã hội chủ nghĩa” và phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hoá”. Trong giai đoạn 1986-1994, lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, tiếp tục được Đảng, Nhà nước quan tâm sâu sắc, toàn diện hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6/1991) xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ XHCN ở Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VII) lần đầu đưa ra khái niệm: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”, “Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Đó không chỉ là những văn kiện mang tính đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, mà còn thể hiện tư duy lý luận văn hóa một cách toàn diện và sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp học bổ túc văn hóa và kỹ thuật buổi tối của công nhân Nhà máy Ô tô 1/5, lá cờ đầu của phong trào bổ túc văn hóa ngành công nghiệp Hà Nội vào ngày 19/12/1963. Ảnh tư liệu lịch sử
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp học bổ túc văn hóa và kỹ thuật buổi tối của công nhân Nhà máy Ô tô 1/5, lá cờ đầu của phong trào bổ túc văn hóa ngành công nghiệp Hà Nội vào ngày 19/12/1963. Ảnh tư liệu lịch sử

Để thúc đẩy sự phát triển của văn học, nghệ thuật, Bộ Chính trị (khóa X) ra Nghị quyết số 23 NQ/TW, ngày 16/6/2008 về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Nghị quyết nhấn mạnh: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ...”.

Đại hội X của Đảng (4/2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Tinh thần cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội X và XI của Đảng, đặc biệt, được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (sửa đổi, bổ sung năm 2011): “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Trong định hướng phát triển, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.

Xuất phát từ thực tiễn đất nước sau gần 30 năm đổi mới và phát triển, Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) đã thảo luận và ra Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước”. Nghị quyết này tiếp tục thể hiện sự phát triển tư duy lý luận và sáng tạo của Đảng trong việc nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, đặc biệt là yếu tố con người; việc xác định phương hướng, đặc trưng, tính chất, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa, con người.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học… Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu yêu cầu: “Tập trung nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực của con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới...”; “Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.

Sau Đại hội XIII của Đảng, nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2021) và các sự kiện chính trị, văn hóa quan trọng của đất nước năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết quan trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Đề cập đến vấn đề văn hóa và con người trong bài viết, đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao...”; “Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới...”.

Quan điểm: sự nghiệp văn hoá là của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; tính chất nền văn hoá mới Việt Nam là dân tộc về hình thức, tân dân chủ về nội dung; ba nguyên tắc “Dân tộc hóa”, “Đại chúng hóa”, “Khoa học hóa” và được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” mãi là mục tiêu, phương châm và nguyên tắc để cùng với chính trị và kinh tế, giúp dân tộc ta, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, tất cả vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nhìn lại 93 năm từ khi thành lập Đảng và 80 năm ra đời Đề cương văn hóa năm 1943, chúng ta đã đi qua một chặng đường dài đầy hy sinh, gian khổ. Những quan điểm cơ bản của Đảng về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; về con đường đi lên CNXH của nước ta; về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển... được bổ sung, hoàn thiện một cách khoa học, cách mạng, nhân văn, được toàn Đảng, toàn dân đồng tình, ủng hộ.

Quan điểm: sự nghiệp văn hoá là của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; tính chất nền văn hoá mới Việt Nam là dân tộc về hình thức, tân dân chủ về nội dung; ba nguyên tắc “Dân tộc hóa”, “Đại chúng hóa”, “Khoa học hóa” và được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” mãi là mục tiêu, phương châm và nguyên tắc để cùng với chính trị và kinh tế, giúp dân tộc ta, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, tất cả vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

PGS. TS. NGUYỄN THẾ KỶ/TG 
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng
Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương 

________________

(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.7, tr. 318, 470.

(3) Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2009, t.3, tr.559.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.1-3.

(5) (7) (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.7, tr.246-247, 246, 246.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.677.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

XEM NHIỀU TRONG THÁNG
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây