Tài liệu sinh hoạt chi đoàn Tháng 02/2022

Thứ ba - 08/02/2022 23:42
Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn ban hành Tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 02/2022. Đề nghị các Huyện, Thị, Thành Đoàn và Đoàn trực thuộc triển khai đến các cấp bộ Đoàn của đơn vị mình.
Từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam họp ở Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Ảnh: TTXVN
Từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam họp ở Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Ảnh: TTXVN

Nội dung tải tại đây:/uploads/news/2022_02/tai-lieu-sinh-hoat-chi-doan-thang-02.2022.chinh.doc

CHỦ ĐỀ: CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 92 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (3/2/1930 - 3/2/2022)
Những ngày đáng nhớ trong tháng 02:

- 03/02/1930: Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- 07/02/1418: Ngày Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn.
- 17/02/1979: Kỷ niệm Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
- 27/02/1955: Ngày Thầy thuốc Việt Nam.
Kỷ niệm 92 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2022)
Sự ra đời của Đảng đã làm thay đổi vận mệnh của cả dân tộc
Nói sự ra đời của Đảng ta đã làm thay đổi vận mệnh của cả dân tộc là bởi, cách đây 92 năm, vào ngày 3-2-1930, chính Đảng do Nguyễn Ái Quốc sáng lập đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng chính trị và coi “lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc” là lợi ích của Đảng. Chính Đảng đó theo đuổi mục tiêu lâu dài và cuối cùng là đáp ứng nguyện vọng thiêng liêng “Độc lập - Tự do - Hòa bình” của nhân dân, thực hiện sứ mệnh, khát vọng “hùng cường” của cả dân tộc.
Điều ấy đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác”.
Xuất phát từ lý tưởng cách mạng đó, những người cộng sản đã quyết tâm thực hiện lời thề trước cờ Đảng bằng sự phục tùng kỷ luật, tu dưỡng rèn luyện tâm hồn, giữ gìn đức hạnh, phẩm cách thanh sạch. Họ gắn bó mật thiết với nhân dân, hướng tới lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
Học thuyết khoa học tiên tiến, đường lối, phương châm đúng của Đảng cùng lý tưởng cách mạng trong sáng và kỷ luật đảng của hàng triệu đảng viên chân chính đã tạo được sự tin yêu, gắn bó mật thiết của nhân dân với Đảng ta. Chính nhân tố hàng đầu này đã quyết định đưa đất nước ta băng qua những gập ghềnh, gian nan nhất trong hơn 4.000 năm lịch sử. Và đó cũng là điều mà trước khi có Đảng thì những phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tuy dấy lên mạnh mẽ với nhiều khuynh hướng tư tưởng, con đường khác nhau, nhưng vẫn thất bại chỉ vì thiếu những nhân tố quan trọng này.
Những chiến thắng vĩ đại và thành tựu to lớn của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng chính là minh chứng. Mùa thu năm 1945, cả dân tộc đã tự nguyện tham gia cuộc Tổng khởi nghĩa do Đảng khởi xướng để khai sinh ra Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp sau đó là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và các cuộc chiến đấu bảo vệ vững chắc cương vực của Tổ quốc.
Tuy nhiên, đó là tiếng vọng từ lịch sử hào hùng. Ngày hôm nay, Đảng ta có tiếp tục nhất quán “lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc” là lợi ích của Đảng, có theo đuổi thực hiện sứ mệnh, khát vọng của cả dân tộc như hứa hẹn của Đảng vào mùa Xuân năm 1930?
Câu trả lời là: Có! Thế nhưng…
Sau luồng gió Đổi mới năm 1986 đưa đất nước thoát khỏi trì trệ để vào đà phát triển, đời sống của người dân ngày một ấm no, thế và lực của quốc gia được tăng cường. Tuy vậy, trong bối cảnh tình hình và những yêu cầu nhiệm vụ mới đặt ra, Đảng ta đã đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng, quan liêu. Căn nguyên là đã có những lúc, những nơi, không ít cán bộ, đảng viên quên lời thề trước cờ Đảng. Lý tưởng cách mạng và sự “khắc kỷ” vốn có của những người cộng sản chân chính - yếu tố từng được nhân dân tin yêu và gắn bó mật thiết thì nay dường như đã phai nhạt ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Thậm chí nhiều cán bộ đảng viên cấp chiến lược thiếu phục tùng kỷ luật, thiếu sự tu dưỡng rèn luyện, giữ gìn đức hạnh, phẩm cách thanh sạch.
“Vì dân” không còn là mục tiêu nhân văn, sự hướng tới của những cán bộ, đảng viên này. Thay vào đó là xa lánh nhân dân, “kiêu ngạo cộng sản”, duy ý chí, quan liêu, giáo điều. Đó là tình trạng “nói không đi đôi với làm”, hách dịch, độc đoán, lạm quyền. Đó là sự “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những động cơ không trong sáng. Tất cả điều đó đã dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về đạo đức, lối sống có xu hướng ngày càng phổ biến.
Dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, hành vi của những “mảnh vỡ” này đã, đang làm suy yếu Đảng, gây nguy cơ xói mòn, tâm lý hoài nghi của nhân dân đối với mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Mà nguy cơ hiện hữu này đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ!
Để tiếp tục dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân vững tin bước tiếp trên con đường mà Bác Hồ, Đảng và dân tộc đã lựa chọn thì chấn chỉnh kỷ luật đảng, kiên quyết thải loại những đảng viên có biểu hiện chệch hướng, đã hoàn toàn muốn đi ngược lại lý tưởng cộng sản là yêu cầu cấp bách, đòi hỏi sống còn với Đảng.
Thế nên, Đảng, Nhà nước đang có rất nhiều hành động quyết liệt. Toàn hệ thống chính trị đang đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Cùng với việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ thì kỷ luật đảng - yếu tố hợp thành sức mạnh của Đảng đang ngày càng nghiêm minh, không có bất kỳ “vùng cấm” nào. “Lò lửa” chống tham nhũng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhóm đang nóng rực với niềm tin “làm đến cùng, không bỏ giữa chừng”.
Những ngày lịch sử này, phương châm “lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc” là lợi ích của Đảng đang thể hiện rõ nhất, nhân văn nhất trong chiến lược của Đảng, Nhà nước về phòng, chống đại dịch COVID-19. Đó là trước mắt có thể chịu thiệt hại về kinh tế nhưng bằng mọi giá phải bảo vệ tính mạng nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Chiến lược ấy đã thể hiện rất sinh động qua các cơ chế, chính sách hỗ trợ kịp thời, linh hoạt nhằm đảm bảo an sinh xã hội, giúp hàng triệu lao động và doanh nghiệp vượt qua khó khăn do đại dịch.
Đó còn là những chính sách ưu tiên cao của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào vùng dân tộc thiểu số miền núi, biên giới đang giúp khu vực này giảm dần từng bản làng nghèo, từng số phận đặc biệt khó khăn, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào đang ngày càng cải thiện, khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền đang được nỗ lực từng bước thu hẹp...
Đã 92 năm kể từ ngày 3 tháng 2 năm 1930. Đất nước đang trên chặng đường phát triển mới với những vận hội song hành thách thức mới. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu Việt Nam hùng cường vào năm 2045, lợi ích quốc gia, lợi ích của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân tiếp tục được Đảng, Nhà nước đặt lên trên hết, trước hết.
Lời thề trước cờ Đảng cùng trách nhiệm nêu gương đang được đề cao và phẩm cách, đức hạnh của cán bộ, đảng viên yêu cầu hướng tới sự thanh sạch. Niềm tin của nhân dân đối với Đảng và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân đang được bồi đắp.
Bởi vậy, như niềm tin của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Với hướng đi đúng đắn, hợp quy luật; ý Đảng hợp với lòng dân; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khát vọng vươn lên mãnh liệt và ý chí, quyết tâm chính trị cao, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhất định sẽ lập nên những kỳ tích phát triển mới, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc”.
Theo (TTXVN/Vietnam+)
17/02/1979: KỶ NIỆM 43 NĂM CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC CỦA TỔ QUỐC
Chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc Tổ quốc 1979 - Thắng lợi và bài học lịch sử
           Cuộc chiến đấu này thêm một lần nữa khẳng định ý chí, sức mạnh bền bỉ của nhân dân Việt Nam quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
Ngày 17/2/1979, thực hiện kế hoạch vạch ra từ trước, nhà cầm quyền Trung Quốc đã phát động cuộc tiến công quy mô lớn xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh).
Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, quân và dân Việt Nam anh dũng chiến đấu, giáng trả quyết liệt.
Chịu nhiều tổn thất mà chưa đạt được mục tiêu ban đầu đề ra, đồng thời bị dư luận thế giới lên án mạnh mẽ do tính chất phi nghĩa của cuộc tiến công, phía Trung Quốc rút hết quân về nước vào ngày 18/3/1979.
Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) trân trọng giới thiệu bài viết: “Chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc Tổ quốc 1979 - Thắng lợi và bài học lịch sử” của tiến sỹ Trần Hữu Huy, Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
Cuộc chiến tranh phi nghĩa của phía Trung Quốc
Trung Quốc là nước láng giềng của Việt Nam. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, nhân dân hai nước gắn bó mật thiết, đoàn kết giúp đỡ nhau. Nhưng sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam thắng lợi (1975), quan hệ hai nước dần xấu đi.
Đầu năm 1979, khi Quân đội nhân dân Việt Nam tiến công đánh đổ tập đoàn phản động Pol Pot, giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, mở ra công cuộc hồi sinh đất nước, chính quyền Trung Quốc cùng một số nước khác ra sức tuyên truyền xuyên tạc sự xuất hiện của Quân tình nguyện Việt Nam trên lãnh thổ Campuchia.
Mục đích của họ là muốn chống phá cách mạng Việt Nam, hậu thuẫn cho các thế lực phản động để mưu toan áp đặt lợi ích dân tộc của họ trên bán đảo Đông Dương.
Trong khi đó, bối cảnh quốc tế lúc này đang có những diễn biến rất phức tạp khi mâu thuẫn Liên Xô-Trung Quốc gia tăng căng thẳng; quan hệ Trung Quốc-Mỹ tiếp tục có sự cải thiện và cả hai đều coi Liên Xô là “kẻ thù số 1.”
Sau nhiều lần gây ra các vụ khiêu khích quân sự quy mô nhỏ, từ ngày 17/2/1979, phía Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân, trên 500 xe tăng, xe bọc thép; hàng ngàn khẩu pháo các loại... mở cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh), trong đó hướng tiến công chủ yếu là Cao Bằng-Lạng Sơn; hướng tiến công quan trọng là Lào Cai (Hoàng Liên Sơn); hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu); hướng nghi binh thu hút lực lượng là Quảng Ninh, Hà Tuyên.
Mở cuộc tiến công xuống biên giới phía Bắc Việt Nam, các nhà cầm quyền Trung Quốc hướng đến những mục tiêu cơ bản:
Thứ nhất, buộc Việt Nam phải rút Quân tình nguyện ra khỏi Campuchia, tạo điều kiện cho quân Pol Pot hồi phục lực lượng, giữ được những căn cứ còn lại, tiếp tục chống phá chính quyền cách mạng Campuchia vừa thiết lập.
Thứ hai, tranh thủ sự ủng hộ của một số nước lớn đang chống phá cách mạng Việt Nam (trong đó có Mỹ) để giúp Trung Quốc thực hiện “bốn hiện đại hóa” (nông nghiệp, công nghiệp, quân đội, khoa học-kỹ thuật).
Thứ ba, phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng, kích động bạo loạn, hạ uy thế quân sự, chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế sau chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược năm 1975.
Thứ tư, thị uy sức mạnh đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á; đồng thời thăm dò phản ứng của Liên Xô và dư luận thế giới để chuẩn bị cho những bước phiêu lưu quân sự sau này.
Bộ Chỉ huy phía Trung Quốc chủ quan nhận định: với lực lượng, vũ khí trang bị chiếm ưu thế áp đảo hiện tại (bộ binh đông hơn gấp 3,5 lần; pháo binh nhiều gấp 5,7 lần; xe tăng, thiết giáp nhiều gấp 9,8 lần...), quân Trung Quốc sẽ nhanh chóng đập tan hệ thống phòng thủ biên giới của Việt Nam; mặt khác, một bộ phận lớn Quân đội Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, lực lượng tăng cường cho mặt trận biên giới sẽ gặp nhiều khó khăn.
Từ nhận định đó, Bộ Chỉ huy phía Trung Quốc đề ra kế hoạch là nhanh chóng đánh chiếm một số thị xã, địa bàn quan trọng, sau đó tùy điều kiện tình hình cụ thể có thể phát triển sâu vào nội địa Việt Nam.
Trên mỗi hướng tiến công, quân Trung Quốc thường kết hợp đánh chính diện với vu hồi, thọc sâu, bao vây, chia cắt; phối hợp giữa bộ binh, xe tăng, xe bọc thép và pháo binh, thực hiện đánh phá triệt để toàn diện rất tàn khốc. Tuy nhiên, trên thực tế, quân Trung Quốc đã gặp phải sự giáng trả quyết liệt từ phía Việt Nam.
Quyền tự vệ chính đáng của nhân dân Việt Nam
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi (năm 1975), nhiều đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Nhà nước Việt Nam (trong đó có cả Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn) sang thăm Trung Quốc, khẳng định Việt Nam luôn ghi nhớ và biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc về sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn cả về chính trị, vật chất lẫn tinh thần trong hai cuộc kháng chiến cứu nước; phía Việt Nam luôn coi trọng việc giữ gìn quan hệ láng giềng hữu nghị hợp tác với Trung Quốc.
Cuối năm 1978, đầu năm 1979, khi quan hệ hai nước căng thẳng, xung đột vũ trang nhỏ lẻ ở biên giới liên tục diễn ra, phía Việt Nam vẫn kiên trì kêu gọi Chính phủ Trung Quốc cùng nhau đàm phán giải quyết mọi mâu thuẫn, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Đáp lại thiện chí đó, phía Trung Quốc vẫn chủ trương tiến hành đường lối chống Việt Nam, cắt toàn bộ viện trợ đã cam kết, đưa ra những đòi hỏi vô lý khi đàm phán (Việt Nam rút Quân tình nguyện khỏi Campuchia, có quy chế riêng bảo đảm quyền lợi người Việt gốc Hoa ở miền Nam Việt Nam...).
Mặt khác, Chính phủ Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền vu cáo “Việt Nam xâm lược Campuchia,” “Việt Nam lấn chiếm đất đai, quấy rối biên cương phía Nam Trung Quốc” nhằm đánh lạc hướng dư luận trong và ngoài nước, từ đó ngang ngược tuyên bố “dạy cho Việt Nam một bài học.”
Lường định về một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, cuối năm 1978, Trung ương Đảng, Chính phủ Việt Nam khẩn trương tăng cường lực lượng củng cố tuyến phòng thù biên giới phía Bắc.
Trước cuộc tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, ngày 17/2/1979, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố nêu rõ nhà cầm quyền Trung Quốc đang đi ngược lại lợi ích của nhân dân, phá hoại nghiêm trọng tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước, đồng thời khẳng định quân và dân Việt Nam không có con đường nào khác là thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả.
Trong những ngày đầu chiến tranh, phía Việt Nam chủ trương không tập trung lực lượng dự bị chiến lược vào quyết chiến sớm, cũng không vội rút lực lượng chủ lực cơ động phía Nam ra, mà phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa phương, sử dụng lực lượng tại chỗ của Quân khu 1, Quân khu 2 là chính, có sự bổ sung một bộ phận lực lượng từ tuyến sau lên tăng cường.
Trải qua 10 ngày chiến đấu, các lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2 và nhân dân Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc đã chiến đấu rất anh dũng, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm chậm ý định “đánh nhanh, chiếm nhanh” của quân Trung Quốc, buộc đối phương phải tung lực lượng dự bị chiến lược vào tham chiến. Với ưu thế quân đông, nhiều vũ khí trang bị kỹ thuật, quân Trung Quốc từng bước tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, lần lượt chiếm một số địa bàn, thị xã quan trọng như: Lào Cai (19/2), Cao Bằng (24/2), Cam Đường (25/2), Lạng Sơn (5/3)...
Trước tình hình cấp bách đó, Chính phủ Việt Nam quyết định sử dụng các binh đoàn chủ lực mạnh, sẵn sàng mở những chiến dịch phản công quy mô lớn của binh chủng hợp thành. Theo phương châm đó, đầu tháng 3/1979, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra lệnh cho Quân đoàn 2 đang làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia nhanh chóng chuyển toàn bộ lực lượng về phía Bắc tập kết, đồng thời, ra quyết định thành lập Quân đoàn 5 (ngày 2/3/1979) ngay tại mặt trận biên giới (gồm bốn sư đoàn bộ binh: 3, 338, 327, 337 cùng một số đơn vị kỹ thuật và bảo đảm khác).
Các đơn vị chủ lực của Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không-Không quân và các binh chủng kỹ thuật khác sẵn sàng tham gia chiến đấu. Để phát huy sức mạnh tổng hợp cả nước, ngày 4/3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam ra quyết định tổng động viên lực lượng bảo vệ Tổ quốc. Kế hoạch tác chiến chiến lược được bổ sung thảo luận thông qua.
Vào thời gian này, do bị thiệt hại nặng nề mà chưa đạt được mục tiêu cơ bản đề ra, lại bị dư luận quốc tế lên án mạnh mẽ, tối 5/3/1979, chính quyền Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước. Để tỏ thiện chí hòa bình, mong muốn khôi phục quan hệ hữu nghị giữa hai nước, Trung ương Đảng, Chính phủ Việt Nam ra lệnh cho các lực lượng vũ trang và nhân dân trên vùng biên giới phía Bắc dừng chiến dịch phản công để tạo điều kiện cho quân Trung Quốc rút về. Đến ngày 18/3/1979, Trung Quốc hoàn thành việc rút quân khỏi Việt Nam.
Thắng lợi và bài học lịch sử
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam diễn ra trong vòng khoảng một tháng (từ 17/2-18/3/1979) nhưng có ý nghĩa thắng lợi rất to lớn, thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản:
Quân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân Trung Quốc, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng, xe thiết giáp, phá hủy 115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí, đồ dùng quân sự... buộc đối phương sớm rút quân, qua đó làm thất bại hoàn toàn ý đồ của các nhà cầm quyền Trung Quốc muốn áp đặt lợi ích nước lớn lên bán đảo Đông Dương.
Cuộc chiến đấu này thêm một lần nữa khẳng định ý chí, sức mạnh bền bỉ của nhân dân Việt Nam quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, bởi Việt Nam lúc này vừa kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ chưa lâu (1975), vừa kết thúc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và đang làm nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, thực hiện công cuộc hồi sinh đất nước, kinh tế lại đang gặp rất nhiều khó khăn do cấm vận của Mỹ...
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam góp phần khẳng định đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc bén của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Việt Nam, nhất là trong việc nắm bắt tình hình, đánh giá đúng khả năng hành động của đối phương, trên cơ sở đó kịp thời chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang và nhân dân chuẩn bị các mặt sẵn sàng đối phó; tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc.
Qua thực tiễn điều hành, chỉ đạo chiến tranh, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam luôn khẳng định về quyền tự vệ chính đáng của mình, kiên quyết đánh trả mọi cuộc tiến công xâm phạm chủ quyền, nhưng đồng thời cũng luôn thể hiện rõ lòng bao dung, khát vọng hòa bình, mong muốn chấm dứt xung đột để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt Nam-Trung Quốc, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới.
Để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh, nhân dân Việt Nam cũng chịu những tổn thất nặng nề: hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ thương vong; hàng chục ngàn dân thường bị thiệt mạng. Các thị xã Cao Bằng, Lạng Sơn, Cam Đường, Lào Cai gần như bị hủy diệt hoàn toàn; tổng cộng có 320 xã, 735 trường học, 41 nông trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 38 lâm trường bị tàn phá; 400.000 gia súc bị giết, bị cướp. Khoảng 50% trong tổng số 3,5 triệu người ở sáu tỉnh biên giới bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc 1979 là sự kiện lịch sử đặc biệt, để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học quý báu:
Một là, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, dự đoán chính xác âm mưu và hành động của các bên liên quan, nhất là động thái các nước lớn, trên cơ sở đó có sự chuẩn bị toàn diện, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống.
Hai là, giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tự cường, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị, quân sự với đấu ngoại giao để vừa phát huy sức mạnh tổng hợp trong nước, vừa nêu cao tính chính nghĩa của cách mạng nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế, không để các thế lực thù địch xuyên tạc hòng tìm cách cô lập.
Ba là, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân địa phương, đặc biệt là sức mạnh của lực lượng vũ trang tại chỗ (bộ đội chủ lực quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, dân quân du kích) kết hợp với sức mạnh hậu phương cả nước tạo thành những “trường thành thép” sẵn sàng đánh trả có hiệu quả mọi cuộc tiến công từ bên ngoài ngay thời gian đầu.
Bốn là, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều” với nghệ thuật quân sự hiện đại (phương thức tác chiến chính quy), đồng thời biết khai thác, phát huy tư tưởng nhân văn “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” của cha ông thuở trước kết hợp với chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh./.
Theo TTXVN/Vietnam+
KỶ NIỆM 67 NĂM NGÀY THẦY THUỐC VIỆT NAM (27/02/1955 - 27/02/2022)
Ý nghĩa và lịch sử ra đời Ngày thầy thuốc Việt Nam 27/2
Y đức là phẩm chất tốt đẹp của người làm công tác y tế, được biểu hiện ở tinh thần trách nhiệm cao, tận tuỵ phục vụ, hết lòng thương yêu chǎm sóc người bệnh, coi họ đau đớn như mình đau đớn, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Lương y phải như từ mẫu". Phải thật thà đoàn kết, khắc phục khó khǎn, học tập vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ, toàn tâm toàn ý xây dựng nền Y học Việt Nam. Y đức phải thể hiện qua những tiêu chuẩn, nguyên tắc đạo đức được xã hội thừa nhận.
 Hằng năm, ngày 27/2 được xem là ngày Thầy thuốc Việt Nam, tôn vinh các cán bộ Y tế, Bác sĩ và những người đang làm việc trong ngành Y nhưng ít người biết được Lịch sử ra đời ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2.
Ngày 27/2/1955, nhân dịp tổ chức hội nghị cán bộ y tế, Bác Hồ đã gửi thư cho Hội nghị căn dặn ba điều:
- 'Trước hết là phải thật thà đoàn kết – Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết thì vượt được mọi khó khăn, giành được nhiều thành tích.
Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế, từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sỹ, dược sỹ cho đến các anh chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân.
- Thương yêu người bệnh – Người bệnh phó thác tính mạng của họ nơi các cô các chú. Chính phủ phó thác cho các cô các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khoẻ cho đồng bào. Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy , cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn.' Lương y phải như từ mẫu', câu nói ấy rất đúng.
- Xây dựng một nền y học của ta – Trong những năm nước ta bị nô lệ thì y học cũng như các ngành khác đều bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp vơí nhu cầu của nhân dân ta. Y học cần phải dựa trên nguyên tắc: khoa học dân tộc và đại chúng.
Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quí báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cưú và phối hợp thuốc ' Đông' và thuốc ' Tây'.
Do đó ý nghĩa sâu sắc của bức thư này, từ năm 1955, ngày 27 tháng 2 được chọn là Ngày thầy thuốc Việt Nam.
Y đức là phẩm chất tốt đẹp của người làm công tác y tế, được biểu hiện ở tinh thần trách nhiệm cao, tận tuỵ phục vụ, hết lòng thương yêu chǎm sóc người bệnh, coi họ đau đớn như mình đau đớn, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: 'Lương y phải như từ mẫu'. Phải thật thà đoàn kết, khắc phục khó khǎn, học tập vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ, toàn tâm toàn ý xây dựng nền Y học Việt Nam. Y đức phải thể hiện qua những tiêu chuẩn, nguyên tắc đạo đức được xã hội thừa nhận.
1. Chǎm sóc sức khoẻ cho mọi người là nghề cao quý. Khi đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ y tế phải nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ. Phải có lương tâm và trách nhiệm cao, hết lòng yêu nghề, luôn rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức của thầy thuốc. Không ngừng học tập và tích cực nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn. Sẵn sàng vượt qua mọi khó khǎn gian khổ vì sự nghiệp chǎm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
2. Tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm túc các quy chế chuyên môn. Không được sử dụng người bệnh làm thực nghiệm cho những phương pháp chẩn đoán, điều trị, nghiên cứu khoa học khi chưa được phép của Bộ Y tế và sự chấp nhận của người bệnh.
3. Tôn trọng quyền được khám bệnh, chữa bệnh của nhân dân. Tôn trọng những bí mật riêng tư của người bệnh; khi thǎm khám, chǎm sóc cần bảo đảm kín đáo và lịch sự. Quan tâm đến những người bệnh trong diện chính sách ưu đãi xã hội. Không được phân biệt đối xử với người bệnh. Không được có thái độ ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp và gây phiền hà cho người bệnh. Phải trung thực khi thanh toán các chi phí khám bệnh, chữa bệnh.
4. Khi tiếp xúc với người bệnh và gia đình họ, luôn có thái độ niềm nở, tận tình; trang phục phải chỉnh tề, sạch sẽ để tạo niềm tin cho người bệnh. Phải giải thích tình hình bệnh tật cho người bệnh và gia đình họ hiểu để cùng hợp tác điều trị; phổ biến cho họ về chế độ, chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của người bệnh; động viên an ủi, khuyến khích người bệnh điều trị, tập luyện để chóng hồi phục. Trong trường hợp bệnh nặng hoặc tiên lượng xấu cũng phải hết lòng cứu chữa và chǎm sóc đến cùng, đồng thời thông báo cho gia đình người bệnh biết.
5. Khi cấp cứu phải khẩn trương chẩn đoán, xử trí kịp thời không được đùn đẩy người bệnh.
6. Kê đơn phải phù hợp với chẩn đoán và bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý an toàn; không vì lợi ích cá nhân mà giao cho người bệnh thuốc kém phẩm chất, thuốc không đúng với yêu cầu và mức độ bệnh.
7. Không được rời bỏ vị trí trong khi làm nhiệm vụ, theo dõi và xử trí kịp thời các diễn biến của người bệnh.
8. Khi người bệnh ra viện phải dặn dò chu đáo, hướng dẫn họ tiếp tục điều trị, tự chǎm sóc và giữ gìn sức khỏe.
9. Khi người bệnh tử vong, phải thông cảm sâu sắc, chia buồn và hướng dẫn, giúp đỡ gia đình họ làm các thủ tục cần thiết.
10. Thật thà, đoàn kết tôn trọng đồng nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn sàng truyền thụ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau.
11. Khi bản thân có thiếu sót, phải tự giác nhận trách nhiệm về mình không đổ lỗi cho đồng nghiệp, cho tuyến trước.
12. Hăng hái tham gia công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe, phòng chống dịch bệnh, cứu chữa người bị nạn, ốm đau tại cộng đồng; gương mẫu thực hiện nếp sống vệ sinh, giữ gìn môi trường trong sạch.
Hằng năm cứ đến ngày 27/2 là mọi người dân Việt nam lại có dịp được thể hiện lòng kính trọng & sự biết ơn của mình đến các y – bác sĩ, những người một lòng tận tâm cống hiến không quản hi sinh vì sức khỏe của những bệnh nhân của họ. Họ xứng đáng với sự quan tâm & chia sẻ của xã hội.
Nguồn: https://ubmt.quangbinh.gov.vn/
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Phòng và chống các biểu hiện tiêu cực theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tiêu cực là để chỉ những hiện tượng không lành mạnh, có tác dụng phủ định, cản trở, không tốt đối với quá trình phát triển của xã hội; tiêu cực là trái với tích cực.
Tiêu cực thường được sử dụng dưới dạng: Hiện tượng tiêu cực, không lành mạnh; nảy sinh tiêu cực; đấu tranh chống tiêu cực... Tiêu cực có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa cá nhân, là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân. Để thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng "là đạo đức, là văn minh", xứng đáng với vai trò tiền phong, thì phòng và chống các biểu hiện tiêu cực là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên của Đảng cầm quyền.
Những lời cảnh báo của Bác Hồ
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập không lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên tại các cơ quan công quyền, như: “Óc bè phái. Ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không hẩu với mình thì dù có tài cũng dìm họ xuống, họ phải mấy cũng không nghe. Đó là một khuyết điểm rất có hại. Nó làm cho đoàn thể mất cán bộ, kém nhất trí, thường hỏng việc. Đó là một chứng bệnh rất nguy hiểm”; “Óc hẹp hòi-Ở trong Đảng thì không biết cất nhắc những người tốt, sợ người ta hơn mình. Ở ngoài Đảng thì khinh người, cho ai cũng không cách mạng, không khôn khéo bằng mình. Vì thế mà không biết liên lạc hợp tác với những người có đạo đức tài năng ở ngoài Đảng”; "Óc quân phiệt quan liêu. Khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ông vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe. Đối với cấp trên thì xem thường, đối với cấp dưới cậy quyền lấn áp"; "Ích kỷ, hủ hóa...".
Đó còn là những biểu hiện thể hiện rõ tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, như: "Bệnh tị nạnh-Cái gì cũng muốn “bình đẳng”... Bệnh này sinh ra vì hiểu lầm hai chữ bình đẳng; “Bệnh kiêu ngạo-Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”; “Bệnh hiếu danh-Tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Có khi vì cái tham vọng đó mà việc không đáng làm cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê bình thì tinh thần lung lay... Chỉ ham làm chủ tịch này, ủy viên nọ, chớ không ham công tác thiết thực”; "Bệnh cận thị-Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ... chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi hại to lớn"; "Bệnh "cá nhân"... Không theo nguyên tắc sinh hoạt của Đảng... Không phục tùng mệnh lệnh, không tuân theo kỷ luật. Cứ làm theo ý mình..." Bên cạnh đó, "Bệnh xu nịnh, a dua-Lại có những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái"; “Kéo bè kéo cánh lại là một bệnh rất nguy hiểm nữa. Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách gièm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng”... Những cán bộ, đảng viên mang trong mình các biểu hiện tiêu cực, các tật bệnh xấu này chính là những người suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, “hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể”.
Có thể nói, những biểu hiện tiêu cực, sự suy thoái mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra ở trên đều là "con đẻ" của chủ nghĩa cá nhân; không chỉ phản ánh sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt của người cán bộ, đảng viên mà còn là "kẻ địch nội xâm", kẻ thù của người cách mạng. Những cán bộ, đảng viên có suy nghĩ và hành động tiêu cực này là những người không chỉ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, độc đoán, chuyên quyền, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật mà còn coi thường công tác dân vận (không lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, ngày càng rời xa quần chúng, làm trái ngược nguyên tắc phải gắn bó mật thiết với nhân dân...).
Tiến hành đồng bộ, kết hợp chặt chẽ trong phòng, chống tham nhũng và tiêu cực
Theo Từ điển tiếng Việt, tham nhũng là "lợi dụng quyền hành để hạch sách nhũng nhiễu dân", cho nên, tham nhũng là sản phẩm của sự tha hóa, lạm dụng, lợi dụng quyền lực để mưu lợi cho cá nhân và người thân. Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn khi họ lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được trao, được đảm nhiệm nhằm mục đích vụ lợi cho cá nhân, người thân, nhóm lợi ích... Đó là các hành vi: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi... và đó cũng chính là các biểu hiện của sự suy thoái.
Vì tham nhũng là một loại hành vi tiêu cực do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện; là một loại biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cho nên phòng và đấu tranh chống tham nhũng luôn là một nhiệm vụ quan trọng, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm; được đẩy mạnh trong những nhiệm kỳ gần đây.
Đặc biệt, những biểu hiện tiêu cực mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra lúc sinh thời về cơ bản cũng nằm trong số 27 biểu hiện suy thoái mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã nêu; trong đó, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chính là biểu hiện rõ nét nhất của sự tiêu cực đang diễn ra trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thuộc các cơ quan công quyền.
Thực tiễn chỉ ra rằng, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực đều là "kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta... Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính". Do đó, không phải ngẫu nhiên lần đầu tiên vấn đề phòng, chống tham nhũng lại được ghi rõ tại khoản 2, Điều 8 Hiến pháp năm 2013: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải... kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền".
Do đó, phòng và đấu tranh chống tham nhũng, chống các biểu hiện tiêu cực không chỉ cần phải được tiến hành đồng thời, đồng bộ mà còn phải có sự kết hợp, gắn bó chặt chẽ với nhau, để phát huy hiệu quả của từng bộ phận và bảo đảm tính toàn diện của nhiệm vụ quan trọng này.
Hiện thực hóa Quy định số 32-QĐ/TW của Bộ Chính trị
Để thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống; đồng thời, nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, phòng và chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng, ngày 16-9-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã ký ban hành Quy định số 32-QĐ/TW của Bộ Chính trị về "Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực"; trong đó, nêu rõ việc gắn công tác phòng, chống tham nhũng đồng bộ với công tác phòng, chống tiêu cực, nhất là chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tiếp đó, ngày 25-10-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 37-QĐ/TW về "Những điều đảng viên không được làm" thay thế cho Quy định số 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 về "Những điều đảng viên không được làm".
Gắn đấu tranh phòng, chống tham nhũng với phòng, chống những biểu hiện tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên chính là hiểu đúng, hiểu một cách sâu sắc những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”; “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân” và “vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”. Hiểu đúng để hành động đúng trên tinh thần "phải làm liên tục, bền bỉ, không ngừng, không nghỉ, không ngại ngần khó khăn; càng khó, càng phải quyết tâm cao, phải phối hợp tốt hơn nữa", chính là góp phần ngăn chặn từ gốc, phát hiện từ sớm và xử lý ngay từ đầu để ngăn chặn những vi phạm nhỏ, không để chúng tích tụ thành những sai phạm lớn, vụ án lớn; không để những cành cây làm hỏng một thân cây, không để một thân cây bệnh lây lan cả rừng cây như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh.
Vì thế, mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên trong cả hệ thống chính trị đều phải:
Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc phải học tập, quán triệt và thực hiện tốt hơn nữa các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng nói chung, về học tập lý luận chính trị nói riêng trên tinh thần gắn lý luận với thực tiễn. Thông qua quá trình đó, mỗi người tự soi, tự sửa, tự rèn luyện mình theo 3 chuẩn mực và nêu gương về đạo đức cách mạng: “Tự mình phải”, “Đối với người phải”, “làm việc phải” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trong tác phẩm Đường Kách mệnh, năm 1927. Trong triển khai thực hiện, chú trọng nguyên tắc “trên trước, dưới sau”, "trong trước, ngoài sau"; coi đó là việc làm thường xuyên, liên tục, nền nếp, là nhu cầu tự thân của mỗi cán bộ, đảng viên gắn liền với tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát.
Hai là, trong công cuộc phòng, đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" này, cần phải tăng cường vai trò nêu gương trong rèn luyện bản lĩnh chính trị gắn với việc phát huy tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu nói riêng về mọi mặt. Trong đó, chú trọng yêu cầu sự gương mẫu trong học tập nâng cao trình độ, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý; trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác... trên tinh thần thấm nhuần cảnh báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước... Muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết mình trước tiên”.
Ba là, cùng với việc các cơ quan chức năng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, chống tham nhũng hiệu quả; cùng với việc bổ sung, thay thế Quy định số 47-QĐ/TW bằng Quy định số 37-QĐ/TW về "Những điều đảng viên không được làm" và sự phối hợp công tác giữa các cơ quan, ban, ngành chức năng để kịp thời nhận diện rõ hơn, cụ thể hơn các hành vi tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp có liên quan đến tham nhũng của cán bộ, đảng viên (biến quyết tâm chính trị thành hành động thực tiễn trong phòng, chống tham nhũng và mở rộng thêm nội hàm đấu tranh gắn với chống tiêu cực bằng văn bản cụ thể), thì mỗi cấp ủy cũng cần phải chú trọng làm tốt công tác tư tưởng, phát huy dân chủ, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong từng tổ chức cơ sở đảng để làm hạt nhân cho khối đoàn kết của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.
Nguồn: https://tuyengiao.phuyen.gov.vn/
CHÍNH SÁCH MỚI
Những chính sách mới có hiệu lực trong tháng 02/2022
Từ tháng 2, người lao động thời vụ được tăng giờ làm thêm lên 40 giờ mỗi tháng, một số ngành nghề được giảm thuế VAT, hàng hóa phải ghi rõ xuất xứ...
Người lao động thời vụ được làm thêm đến 40 giờ mỗi tháng
Từ 1/2, Thông tư 18 do Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội ban hành quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với người lao động làm các công việc sản xuất có tính thời vụ, công việc gia công theo đơn đặt hàng sẽ có hiệu lực.
Theo đó, thay vì 32, số giờ làm thêm của người lao động thời vụ tăng lên 40 mỗi tháng. Tổng số giờ làm việc tiêu chuẩn và số giờ làm thêm trong một tuần cũng tăng lên 72 một tuần (trước đây là 60). Tổng giờ làm việc tiêu chuẩn và giờ làm thêm trong một ngày không quá 12.
Hàng tuần, người lao động được nghỉ ít nhất một ngày (24 giờ liên tục). Trong những tháng thời vụ hoặc phải gấp rút gia công hàng xuất khẩu theo đơn đặt hàng, nếu không thực hiện được nghỉ hằng tuần thì phải bảo đảm hằng tháng có ít nhất 4 ngày nghỉ cho người lao động. Chủ sử dụng phải bố trí để người lao động được nghỉ ngày nghỉ lễ, tết, nghỉ hằng năm và các ngày nghỉ có hưởng lương khác...
Giảm thuế VAT xuống 8%
Nghị định số 15 của Chính phủ quy định chính sách miễn, giảm thuế theo Nghị quyết của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện từ 1/2 đến hết 31/12/2022.
Theo đó, các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất VAT 10% sẽ được giảm 2% trong năm 2022, xuống còn 8%. Việc giảm thuế VAT sẽ không áp dụng cho một số nhóm hàng hóa, dịch vụ gồm: viễn thông, công nghệ thông tin, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, sản xuất kim loại và sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, ngành khai khoáng (không kể khai thác than), sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất, các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Cơ sở kinh doanh tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ được áp dụng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng 8% đối với hàng hóa, dịch vụ. Cơ sở kinh doanh (bao gồm cả hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh) tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu được giảm 20% mức tỷ lệ % để tính thuế giá trị gia tăng khi thực hiện xuất hóa đơn đối với hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế giá trị gia tăng quy định trên. Thuế VAT được giảm trực tiếp ngay khi xuất hóa đơn.
Bên cạnh chính sách giảm VAT, Nghị định 15 cũng cho phép tính khoản chi ủng hộ, tài trợ phòng chống dịch Covid-19 vào chi phí được trừ khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2022. Dự kiến, ngân sách nhà nước năm 2022 giảm thu 51.400 tỷ đồng, chủ yếu do giảm 49.400 tỷ đồng từ việc hạ VAT, còn lại là phần khấu trừ chi phí tính vào thuế thu nhập doanh nghiệp.
Không được viết tắt nơi sản xuất hàng hóa
Từ 15/2, Nghị định 111 sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 43 của Chính phủ về nhãn hàng hóa sẽ có hiệu lực. Nghị định mới sửa đổi, bổ sung nội dung về xuất xứ hàng hóa, trong đó tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu tự xác định và ghi xuất xứ hàng hóa của mình. Việc này phải bảo đảm trung thực, chính xác, tuân thủ các quy định pháp luật tại Việt Nam hoặc các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Xuất xứ hàng hóa ghi trên nhãn thể hiện bằng một trong các cụm từ như "sản xuất tại", "chế tạo tại", "nước sản xuất", "xuất xứ", "sản xuất bởi", "sản phẩm của" kèm tên nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất ra hàng hóa hoặc ghi theo quy định pháp luật về xuất xứ hàng hóa.
Trường hợp hàng hóa không xác định được xuất xứ theo quy định nêu trên thì ghi nơi thực hiện công đoạn cuối cùng để hoàn thiện hàng hóa. Thể hiện bằng một trong các cụm hoặc kết hợp các cụm từ thể hiện công đoạn hoàn thiện hàng hóa như "lắp ráp tại", "đóng chai tại", "phối trộn tại", "hoàn tất tại", "đóng gói tại", "dán nhãn tại" kèm tên nước hoặc vùng lãnh thổ nơi thực hiện công đoạn cuối cùng để hoàn thiện hàng hóa.
Tên nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất ra hàng hóa hoặc nơi thực hiện công đoạn cuối cùng để hoàn thiện hàng hóa không được viết tắt.
Có thể tiêu hủy thực phẩm không bảo đảm an toàn
Thông tư 17 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn thuộc phạm vi quản lý của Bộ có hiệu lực từ ngày 2/2/2022.
Thông tư quy định rõ 4 hình thức xử lý đối với thực phẩm không bảo đảm an toàn sau thu hồi, bao gồm khắc phục lỗi của sản phẩm, lỗi ghi nhãn (với sản phẩm có lỗi ghi nhãn); chuyển mục đích sử dụng (với thực phẩm không bảo đảm an toàn, không được sử dụng làm thực phẩm nhưng có thể sử dụng vào mục đích khác sau khi xử lý phù hợp); tái xuất (thực phẩm nhập khẩu không bảo đảm an toàn và thuộc diện tái xuất); tiêu hủy (thực phẩm có mức giới hạn an toàn không phù hợp với hồ sơ tự công bố, quy chuẩn kỹ thuật, quy định an toàn thực phẩm gây ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng, không thể chuyển mục đích sử dụng hoặc tái xuất).
Sau khi hoàn thành việc tiêu hủy thực phẩm, chủ cơ sở phải báo cáo bằng văn bản về việc tiêu hủy thực phẩm ghi rõ tên, số lượng, thời gian đã hoàn thành việc tiêu hủy, địa điểm tiêu hủy, kèm theo biên bản tiêu hủy thực phẩm có xác nhận của tổ chức thực hiện tiêu hủy đến cơ quan có thẩm quyền về an toàn thực phẩm hoặc cơ quan ra quyết định thu hồi thực phẩm.
Được trở lại vị trí công tác sau khi có kết luận không tham nhũng
Từ 15/2, Nghị định 134 của Chính phủ ban hành ngày 30/12/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 59 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng có hiệu lực thi hành.
Theo đó, người bị tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác được trở lại vị trí công tác ban đầu sau khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng. Cá nhân này cũng phải được xin lỗi, cải chính công khai và được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong việc ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cũng phải hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác đối với người có chức vụ, quyền hạn sau khi cơ quan có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng.
Nguồn: https://vnexpress.net/

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ĐOÀN



 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây