Tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 3/2023

Thứ sáu - 10/03/2023 03:09
Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn ban hành Tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 3/2023. Đề nghị các Huyện, Thị, Thành Đoàn và Đoàn trực thuộc triển khai đến các cấp bộ Đoàn của đơn vị mình.
Tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 3/2023


Tải tại đây: /uploads/news/2023_03/tl-sinh-hoat-chi-doan-thang-3.2023.doc
Những ngày đáng nhớ trong tháng
3:

-------
- 03/3/1959: Ngày truyền thống Bộ đội Biên phòng
- 03/3/1989: Ngày Biên phòng toàn dân
- 08/3/40: Ngày khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40- 43 sau công nguyên)
- 08/3/1910: Ngày Quốc tế Phụ nữ
- 20/3/2013: Ngày Quốc tế Hạnh phúc
- 26/3/1931: Ngày thành lập Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
- 27/3/1946: Ngày Thể thao Việt Nam

KỶ NIỆM 92 NĂM THÀNH LẬP ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH (26/3/1931-26/3/2023)

1. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập tổ chức Đoàn
Ngày 05/6/1911 người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành từ bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Với nhiệt huyết của tuổi thanh niên, năm 1917, Người sáng lập "Nhóm những người Việt Nam yêu nước" tại Paris (Pháp), thành phần chủ yếu là thanh niên, mục đích chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chính trị chống thực dân Pháp ngay tại Pháp mà hoạt động tiêu biểu là gửi bản yêu sách 08 điểm đòi quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và tự quyết của dân tộc Việt Nam. Dư luận Pháp coi đây là quả bom chính trị nổ ngay giữa Paris. Đến tháng 7/1920, khi được đọc "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã sáng rõ con đường giải phóng dân tộc, từ đó Người quyết định đi theo con đường cách mạng tháng Mười Nga và sau đó tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III (tháng 12/1920). Năm 1921, tại Paris (Pháp), Nguyễn Ái Quốc thành lập ra "Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa", thành viên chủ yếu là thanh niên, mục
đích đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, thông qua tổ chức này truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin đến các dân tộc thuộc địa. Đây chính là loại hình Quốc tế thanh niên thuộc địa theo quan điểm của Lênin mà Nguyễn Ái Quốc bước đầu bắt tay thực hiện.

Tháng 6/1924, Nguyễn Ái Quốc là đại diện ưu tú của các dân tộc bị áp bức, đại biểu chính thức tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V tại Matxcơva (Nga), Người đã đề nghị với Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về việc thành lập "Nhóm châu Á" tại trường Đại học Phương Đông nhằm tạo điều kiện cho thanh niên có cơ hội nghiên cứu tình hình, đặc điểm các nước thuộc địa phụ thuộc. Khi tham gia Đại hội Quốc tế thanh niên cộng sản lần thứ IV tại Matxcơva vào tháng 7/1924, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì soạn thảo và trình bày tại Đại hội "Luận cương về thanh niên thuộc địa", trong đó nêu lên yêu cầu cấp bách phải tổ chức, tập hợp lực lượng thanh niên cách mạng và hình thành các đoàn thể thanh niên, xây dựng các tổ chức Thanh niên cộng sản ở thuộc địa.
Tháng 12/1924, tại Quảng Châu, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu tình hình, tìm cách tiếp cận và làm việc với nhóm thanh niên trong tổ chức Tâm Tâm xã. Người đã nêu lên những thiếu sót trong nhận thức, hành động của nhóm này và khâm phục tinh thần yêu nước đối với các chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi. Dưới hình thức mở các lớp bồi dưỡng về chủ nghĩa xã hội khoa học và học thuyết Mác - Lênin, Cách mạng tháng Mười Nga, Quốc tế Cộng sản… Nguyễn Ái Quốc đã tạo nên niềm tin mạnh mẽ cho số thanh niên yêu nước và đưa họ dần đến với chân lý cách mạng. Tháng 02 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc tổ chức một nhóm thanh niên bí mật gồm 09 người (Lý Thụy, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Lê Quảng Đạt, Lâm Đức Thụ, Vương Thúc Oánh, Lưu Quốc Long và Lâm Văn Dĩnh). Đây là sự kiện đặc biệt quan trọng mở đầu cho quá trình hình thành và phát triển các tổ chức thanh niên cách mạng theo xu hướng cộng sản cũng như sự ra đời của Đoàn Thanh niên Cộng sản ở nước ta.
Tháng 6 năm 1925, "Hội Việt Nam cách mạng thanh niên" với nòng cốt là Cộng sản Đoàn đã chính thức tuyên bố thành lập và bắt đầu mở rộng các hoạt động, tạo ra bước ngoặt quan trọng trong phong trào yêu nước của Nhân dân ta, đặc biệt là của thanh niên. Cơ quan ngôn luận của Hội là báo "Thanh niên", với mục đích truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã đặt nền tảng đầu tiên để chuẩn bị cho sự ra đời tổ chức thanh niên sau này.
Cuối năm 1925 đầu năm 1926, Nguyễn Ái Quốc cử đồng chí Hồ Tùng Mậu về Thái Lan để củng cố cơ sở cách mạng của bà con Việt kiều, đồng thời lựa chọn một số thiếu niên ưu tú là con em Việt kiều yêu nước đang học tại trường Hoa - Anh học hiệu (của một nhà yêu nước người Trung Quốc) bí mật đưa sang Quảng Châu đào tạo để chuẩn bị cho đội ngũ kế cận cách mạng sau này và chuẩn bị cho việc xây dựng Thanh niên cộng sản Đoàn ở trong nước.
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam với việc thành lập tổ chức Đoàn
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất (tháng 10/1930) đã đặt nền móng cho sự ra đời của Đoàn Thanh niên cộng sản. Hội nghị đã thông qua: "Án nghị quyết về tình hình Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng". Đặc biệt là thông qua "Án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận động". Trong Án nghị quyết có ghi: "Đảng phải thi hành ngay Án nghị quyết của Quốc tế cộng sản Đoàn và giúp cho Đoàn có tính độc lập…". "Đảng Cộng sản phải cần kíp công tác trong quần chúng thanh niên, phải lãnh đạo quần chúng thanh niên… Muốn vậy, chỉ có thể tổ chức ra một đoàn thể của thanh niên mới được". "Trung ương, các xứ ủy, các tỉnh, thành, đặc ủy phải phái ra một số đồng chí trẻ tuổi phụ trách tổ chức ra Thanh niên cộng sản Đoàn và giúp cho Đoàn có tánh chất độc lập". "Án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận động" là văn kiện nền tảng về lý luận vận động thanh niên đầu tiên của Đảng, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của phong trào yêu nước trong thanh niên đang phát triển và thực sự tạo nên những chuyển biến quan trọng trong sự nghiệp xây dựng tổ chức Đoàn.
Thực hiện Án nghị quyết tháng 10/1930 về công tác thanh niên của Trung ương Đảng, các cơ sở Đoàn được xây dựng trên hầu hết các địa phương cả nước, nhưng hệ thống tổ chức của Đoàn vẫn chưa được thống nhất và Đoàn chưa có sinh hoạt riêng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 2 diễn ra tại Sài Gòn từ ngày 20 đến ngày 26/3/1931 do Tổng Bí thư Trần Phú chủ trì đã dành nhiều thời gian bàn về công tác xây dựng Đảng và xây dựng Đoàn. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cần kíp mà Đảng phải làm, trong đó có việc phải nhanh chóng thành lập tổ chức Đoàn: "Cần kíp tổ chức ra Cộng sản thanh niên Đoàn, Đảng cần kíp đánh tan cái thái độ hờ hững lãnh đạm với vấn đề đó. Lập tức các Đảng bộ địa phương phải mau mau tổ chức những ủy viên tổ chức ra Đoàn, đốc xuất cho chi bộ tổ chức; tổ chức cơ quan báo chương về việc vận động của Đoàn và phải chỉ đạo cho các chi bộ mới thành lập của Đoàn bắt đầu hoạt động trong quần chúng thanh niên... Trong một thời gian ngắn ngủi tới đây, Đảng bộ các địa phương phải gây ra cơ sở của Đoàn...".
Sau khi có Nghị quyết của Đảng và Chỉ thị của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, các chi bộ đảng ở địa phương đã cử ngay các cấp ủy viên của Đảng phụ trách công tác Đoàn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào thanh niên ngày càng lớn mạnh, đã xuất hiện nhiều tổ chức Đoàn cơ sở trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, một số địa phương đã hình thành hệ thống tổ chức đoàn xã, huyện lên đến tỉnh. Đến cuối năm 1931, số lượng đoàn viên trong cả nước lên đến khoảng hơn 2.500 đoàn viên. Qua cao trào cách mạng 1930 - 1931, với những đóng góp to lớn của đoàn viên, thanh niên cả nước, Ban Chấp hành Quốc tế thanh niên cộng sản đã công nhận Đoàn Thanh niên cộng sản Đông Dương là một bộ phận của Quốc tế thanh niên cộng sản.
Theo đề nghị của Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, được sự đồng ý của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ 3 (tháng 3/1961) đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 (một trong những ngày cuối của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai đã bàn và quyết định những vấn đề quan trọng đối với công tác vận động thanh niên) làm ngày kỷ niệm thành lập Đoàn hằng năm.
3. Ý nghĩa sự ra đời của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Sự ra đời của Đoàn TNCS Đông Dương (nay là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh) đáp ứng kịp thời đòi hỏi cấp bách của phong trào thanh niên nước ta lúc bấy giờ. Đây là sự vận động khách quan phù hợp với quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam; đồng thời thể hiện quan điểm sáng suốt, tầm nhìn chiến lược của Đảng ta và Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về vị trí, tầm quan trọng của thanh niên và công tác thanh niên. Sự ra đời của Đoàn Thanh niên Cộng sản ở Việt Nam trở thành một dấu mốc lịch sử trọng đại của thế hệ trẻ Việt Nam, từ đây những người cộng sản trẻ tuổi đã có tổ chức riêng của mình đặt dưới sự lãnh đạo, rèn luyện thường xuyên, trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng; luôn sắt son niềm tin với Đảng, trở thành đội dự bị tin cậy của Đảng, lực lượng đông đảo, đội quân xung kích cách mạng, trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên Việt Nam; luôn phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
4. Các tên gọi của Đoàn qua các thời kỳ lịch sử
Trải qua các giai đoạn lịch sử, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã mang nhiều tên gọi khác nhau, cụ thể:
- Từ 1931 - 1936: Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương.
- Từ 1936 - 1939: Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương.
- Từ 1939 - 1941: Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dương.
- Từ 1941 - 1956: Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam.
- Từ 1956 - 1970: Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam.
- Từ 1970 - 1976: Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh.
- Từ 1976 đến nay: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Nguồn: https://svhttdl.tiengiang.gov.vn/
Trải qua 64 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng Bộ đội Biên phòng (BĐBP) luôn được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin yêu. Với chức năng, nhiệm vụ làm nòng cốt, chuyên trách trong quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia; những trang sử vẻ vang, chiến công oanh liệt của lực lượng đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý: Toàn lực lượng đã 02 lần được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 01 Huân chương Sao Vàng, 03 Huân chương Hồ Chí Minh, 02 Huân chương Độc lập, 03 Huân chương Quân công, 01 Huân chương Lao động hạng Nhì, 02 Huân chương Lao động hạng Ba, 156 lượt tập thể, 67 cá nhân tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND, hàng vạn tập thể và cá nhân được trao tặng các phần thưởng cao quý khác...
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, nước ta tạm thời bị chia làm 2 miền Nam - Bắc. Trước yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 19/11/1958 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã ra Nghị quyết số 58-NQ/TW về việc tổ chức “Xây dựng lực lượng Cảnh vệ Nội địa và Biên phòng”. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 03/3/1959, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 100/TTg hợp nhất các đơn vị công an, bộ đội làm nhiệm vụ trên các tuyến biên giới, bờ biển, giới tuyến và bảo vệ các mục tiêu nội địa thành một lực lượng có tổ chức thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở, lấy tên gọi là Công an nhân dân vũ trang (CANDVT).
Ngay sau ngày thành lập, CANDVT đã chủ động triển khai nhiệm vụ bảo vệ biên giới, bờ biển miền Bắc, giới tuyến quân sự tạm thời và các mục tiêu quan trọng trong nội địa của 33 khu, tỉnh, thành miền Bắc và Thủ đô Hà Nội. Ở các địa bàn vùng sâu, vùng cao biên giới, thời tiết khắc nghiệt, giao thông khó khăn, công tác đảm bảo còn nhiều thiếu thốn, cán bộ chiến sĩ đã phát huy tinh thần chủ động, tự lực cánh sinh để xây dựng đồn trạm, vượt rừng tìm bà con về lập bản, dựng nhà, tiến hành công tác vận động quần chúng, vận động Nhân dân định canh, định cư, xây dựng cơ sở chính trị... trên biên giới.
CANDVT đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng và chính quyền địa phương tiến hành tiễu phỉ, trừ gian và phá tan âm mưu gây bạo loạn ở các địa phương, kêu gọi hàng nghìn tên phỉ ra đầu thú trở về sinh sống với gia đình, bóc gỡ hàng trăm tổ chức phản động đội lốt tôn giáo trên tuyến biển. Đồng thời đập tan âm mưu dùng gián điệp, biệt kích phá hoại miền Bắc của kẻ thù, truy bắt và tiêu diệt trên 100 toán gián điệp biệt kích với gần 2.000 tên, thu nhiều vũ khí, điện đài. Trên giới tuyến quân sự tạm thời dọc 102 km từ Cửa Tùng đến Cù Bai, 11 đồn CANDVT đóng giữ đã bảo vệ giới tuyến vẹn toàn, nhiều lần làm thất bại âm mưu và hành động phá hoại của Mỹ - Ngụy, củng cố niềm tin cho đồng bào bờ Nam Bến Hải.
Trong khu vực nội địa, các đơn vị CANDVT đã giải quyết, xử lý xuất sắc nhiều tình huống nguy hiểm, quản lý và theo dõi, bắt giữ hơn 305.000 tên gián điệp, chỉ điểm của địch cài cắm lại, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các cơ quan Trung ương, các chuyến công tác của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Cán bộ, chiến sĩ CANDVT đã góp phần không nhỏ trong cuộc đấu tranh chống phá hoại miền Bắc, dũng cảm dùng súng bộ binh trực tiếp bắn rơi 219 máy bay Mỹ, phối hợp với các lực lượng bắn rơi 225 chiếc, lăn lộn trong bom đạn cứu dân, cứu tài sản của Nhà nước, tháo gỡ bom mìn, thủy lôi của địch, giữ vững an ninh trật tự trên biển, nơi cửa sông, cửa lạch và các bến cảng...
Trên chiến trường miền Nam, sự chiến đấu anh dũng của hơn 5.000 cán bộ, chiến sĩ CANDVT miền Bắc chi viện đã tạo thêm sức mạnh cho quân dân miền Nam. Các chiến sĩ an ninh vũ trang đã sát cánh với các lực lượng vũ trang khác chiến đấu giải phóng Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn… nhanh chóng tiếp quản các vùng giải phóng, giữ gìn an ninh trật tự, ổn định đời sống xã hội, tuyên truyền cho Nhân dân hiểu rõ và tin tưởng vào cách mạng.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, CANDVT nhanh chóng tổ chức triển khai lực lượng trên cả nước, hình thành một hệ thống bảo vệ biên giới thống nhất; phối hợp với Công an, Quân đội và Nhân dân cả nước quyết tâm đấu tranh chống kế hoạch “hậu chiến”, truy quét tàn quân FULRO, chống vượt biên, vượt biển trái phép, bóc gỡ cơ sở ngầm của địch, củng cố hệ thống chính trị cơ sở mới thành lập ở các tỉnh biên giới phía Nam[1].
Vết thương sau hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế Quốc Mĩ còn chưa nguôi thì tiếng súng lại vang lên trên bầu trời biên giới. Các đồn Biên phòng lại trực tiếp chống “chiến tranh phá hoại nhiều mặt” của kẻ thù, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam (1975-1979) và biên giới phía Bắc (1979-1989) giữ vững chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. Cán bộ, chiến sĩ CANDVT luôn nêu cao ý chí “kiên quyết dũng cảm trước kẻ thù, tận tụy với Nhân dân” phối hợp tác chiến với các lực lượng vũ trang tấn công tiêu diệt, ngăn chặn quân xâm lược, bảo vệ biên giới, bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhân dân. Thực hiện chủ trương của Đảng “giúp bạn là tự giúp mình”, Bộ Tư lệnh CANDVT đã điều 9 trung đoàn sang chiến đấu và giúp đỡ Nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Khơme đỏ, xây dựng cuộc sống mới. Vào thời điểm này, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của lực lượng CANDVT cũng là bản hùng ca bất diệt về sự dũng cảm của những chiến sĩ quân hàm xanh quyết tâm giữ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.
Sau hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, ngày 10/10/1979, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết số 22-NQ/TW chuyển giao nhiệm vụ và lực lượng CANDVT từ Bộ Nội vụ sang Bộ Quốc phòng đổi tên thành “Bộ đội Biên phòng”. Lực lượng BĐBP luôn giữ vững và phát huy truyền thống anh hùng đã được xây đắp bằng xương máu và sự cống hiến của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong khói lửa chiến tranh, tiếp tục trọng trách bảo vệ biên giới Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 08/8/1995 của Bộ Chính trị (khóa VII) về “Xây dựng Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới”, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28/9/2018 về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”, Bộ Tư lệnh BĐBP đã tham mưu cho Bộ Quốc phòng trình Quốc hội và Chính phủ ban hành những văn bản pháp luật hết sức quan trọng như: Pháp lệnh BĐBP, Luật biên giới quốc gia, Luật Biên phòng Việt Nam và các văn bản qui định chi tiết… Như vậy, với sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, lực lượng BĐBP đã có những cơ sở chính trị, pháp lý cơ bản, quan trọng để tiến hành các hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới và thực thi nhiệm vụ, công tác Biên phòng trong tình hình mới.
Nhằm chủ động đối phó với mọi tình huống xảy ra trên biên giới, vùng biển do sự phá hoại của kẻ địch trong âm mưu “Diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa Quân đội”, nhiều biện pháp nghiệp vụ, chương trình huấn luyện mới đã được Bộ Tư lệnh BĐBP chỉ đạo các nhà trường, đơn vị áp dụng đảm bảo toàn diện cả về chính trị, quân sự, nghiệp vụ, pháp luật, hậu cần, kỹ thuật theo phương châm “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”. BĐBP đã phát huy cao độ năng lực sáng tạo, tự lực tự cường; sử dụng thành thạo vũ khí, khí tài hiện có, kết hợp với bản lĩnh chuyên môn và ý chí cách mạng; giỏi về kỹ, chiến thuật, nắm chắc pháp luật, am hiểu về phong tục tập quán của đồng bào, tinh thông về nghiệp vụ Biên phòng. Toàn lực lượng luôn bảo đảm sẵn sàng chiến đấu cao, kịp thời xử lý các tình huống, nhất là ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống, đặc biệt là đại dịch Covid-19 và các đợt thiên tai, bão lũ.
Từ đầu tháng 2 năm 2020 đến nay, khi dịch Covid-19 bùng phát ở Trung Quốc và lan sang các nước, thực hiện nghiêm Chỉ thị của Ban Bí thư, chỉ đạo của Chính phủ, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, với tinh thần “Chống dịch như chống giặc”, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP đã quán triệt và triển khai kịp thời, quyết liệt, đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch; điều động, tăng cường lực lượng, phương tiện kiểm soát chặt chẽ tại các cửa khẩu, đường mòn, lối mở, có thời điểm duy trì gần 2.000 tổ, chốt với trên 10.000 cán bộ, chiến sĩ BĐBP và các lực lượng chức năng kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ biên giới, vùng biển, cửa khẩu, ngăn chặn xuất nhập cảnh trái phép, bắt giữ, bàn giao đưa đi cách ly hàng ngàn người, quyết tâm không để dịch bệnh lây lan qua biên giới; đã có hàng trăm đồng chí gác lại việc riêng của bản thân, gia đình để tham gia chống dịch trên biên giới.
Hằng năm, nước ta luôn phải chịu ảnh hưởng nặng nề của các đợt thiên tai, bão lũ, sạt lở đất khốc liệt. Các đơn vị BĐBP đã điều động hàng chục ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ và phương tiện, hàng trăm lượt chó nghiệp vụ tham gia tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, giúp Nhân dân khắc phục hậu quả, sớm ổn định cuộc sống.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ được xác định là nhiệm vụ then chốt trong xây dựng lực lượng vững mạnh toàn diện. Các tổ chức Đảng luôn đổi mới nội dung sinh hoạt, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, làm tốt công tác giáo dục chính trị cho đảng viên và cán bộ chiến sĩ để có bản lĩnh chính trị vững vàng, xác định quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Hằng năm có từ 95-98% tổ chức cơ sở Đảng đạt TSVM, đảm bảo sức mạnh chiến đấu, sức mạnh lãnh đạo để thực hiện đạt hiệu quả cao nhất các nội dung công tác.
Trên tuyến biên giới đất liền, các đơn vị thường xuyên tuần tra bảo vệ đường biên cột mốc, phát hiện và xử lý kịp thời hàng trăm vụ vi phạm về chủ quyền lãnh thổ. Trên tuyến biển, các hải đoàn, hải đội Biên phòng phối hợp với các lực lượng bắt giữ, xử lý nhiều vụ tàu thuyền vi phạm pháp luật, giữ vững chủ quyền cùng các nguồn lợi quốc gia trên biển. Trong công tác quản lý cửa khẩu, kiểm soát xuất nhập cảnh, BĐBP đã tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin thực hiện hiệu quả thủ tục Biên phòng theo cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN, tập trung đầu tư trang bị, phương tiện kỹ thuật hiện đại, thực hiện số hóa, tự động hóa trong công tác kiểm soát xuất nhập cảnh; rút ngắn thời gian làm thủ tục, thúc đẩy lưu thông biên giới, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới, phát triển đất nước.
Trong những năm qua, BĐBP luôn quán triệt và thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng nhiều hoạt động quan trọng như công tác phân giới cắm mốc trên cả ba tuyến biên giới, ký kết các thỏa thuận hợp tác quân sự, hợp tác biên phòng với các nước láng giềng... Tổ chức hiệu quả các hoạt động đối ngoại Biên phòng như: Phối hợp với cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng và các lực lượng liên quan phục vụ tổ chức thành công 7 lần Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Giao lưu Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia lần thứ Nhất; tổ chức 5 lần đối thoại chính sách quốc phòng Việt Nam - Campuchia. Tổ chức Hội đàm giữa Bộ Tư lệnh BĐBP với Bộ Tư lệnh Lục quân, Bộ Tư lệnh Hiến binh Quân đội Hoàng gia Campuchia. Năm 2022 đã triển khai Kế hoạch tổ chức các hoạt động kỷ niệm 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao, 45 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị, hợp tác Việt Nam - Lào, 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Campuchia và Lễ kỷ niệm 45 năm “Con đường tiến đến đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt” của Thủ tướng Campuchia Hun Sen. Tổ chức kết nghĩa “Đồn - Trạm hữu nghị, Biên giới bình yên” cho 185 cặp/265 đồn Biên phòng với các đại đội BĐBP và Chi đội, Trạm kiểm tra Biên phòng, xuất nhập cảnh các nước láng giềng; tổ chức các chương trình “Giao lưu hữu nghị biên giới”; tham mưu cho chính quyền địa phương tổ chức “Kết nghĩa cụm dân cư hai bên biên giới” cho 207 cặp cụm dân cư…
Với vai trò chủ trì, duy trì an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu; BĐBP đã xây dựng và triển khai nhiều kế hoạch đấu tranh phòng, chống tội phạm gắn với bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. Các đơn vị BĐBP đã chủ động nắm chắc tình hình, phân tích, đánh giá, dự báo sát đúng; kịp thời triển khai các chủ trương, đối sách đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu hoạt động của bọn phản động, giữ ổn định an ninh quốc gia ở KVBG, không để bị động, bất ngờ. Cán bộ, chiến sĩ BĐBP không quản ngại vất vả, hy sinh, thể hiện tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với tội phạm. Tính từ năm 1998 tới nay, BBĐP đã xác lập hơn 1.600 chuyên án, xây dựng trên 7.000 kế hoạch nghiệp vụ, bắt giữ và xử lý hơn 107.000 vụ với trên 167.000 đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia, mua bán người, tiền giả và các loại tội phạm khác; giải cứu trên 2.000 nạn nhân bị mua bán về tái hòa nhập cộng đồng. Xử phạt hành chính, tịch thu hàng hóa tang vật sung công quỹ Nhà nước trị giá hàng chục nghìn tỷ đồng… Riêng đấu tranh với tội phạm về ma túy, BĐBP đã bắt giữ trên 120.000 vụ với trên 200.000 đối tượng, thu hàng chục tấn heroin, cần sa, ma túy dạng đá, hàng trăm triệu viên ma túy tổng hợp, cùng nhiều vũ khí quân dụng, vật liệu nổ...
BĐBP luôn tích cực tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, xây dựng “thế trận lòng dân” ở KVBG. Hiện nay, có 311 “Cán bộ tăng cường xã quân hàm xanh” giữ các vị trí chủ chốt tại các xã biên giới đặc biệt khó khăn và 2.388 đảng viên các Đồn Biên phòng về tham gia sinh hoạt tại các chi bộ thôn, bản; 9.402 đảng viên ở các Đồn Biên phòng phụ trách 40.893 hộ gia đình ở khu vực biên giới. Các tỉnh, thành ủy đã ra quyết định chuẩn y, chỉ định 165 đồng chí tham gia cấp ủy cấp huyện, 517 đồng chí tham gia cấp ủy cấp xã; góp phần bồi dưỡng, giới thiệu hàng nghìn thanh niên ưu tú người dân tộc vào Đảng, xóa gần 600 thôn, bản trắng về đảng viên. Hàng trăm “Thầy giáo quân hàm xanh” đã mở gần 1.000 lớp xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học cho trên 10.000 học viên. Thực hiện chương trình “Nâng bước em tới trường”, hằng năm toàn lực lượng hỗ trợ 500.000đ/tháng cho 3.000 học sinh ở KVBG (trong đó, có 75 cháu của Lào và 100 cháu của Campuchia); từ năm 2018 đến nay các đơn vị nhận nuôi 388 em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong chương trình “Con nuôi đồn biên phòng”. Năm 2022 thực hiện Dự án “Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nâng bước em tới trường” các đơn vị BĐBP đã nhận nuôi 205 học sinh, nhận hỗ trợ 2.433 học sinh với tổng kinh phí hỗ trợ trên 12 tỷ đồng. Hàng trăm “Thầy thuốc quân hàm xanh” thường xuyên túc trực, khám chữa bệnh, cấp phát thuốc miễn phí cho người dân hai bên biên giới. Hàng ngàn “Cán bộ khuyến nông quân hàm xanh” tham gia cùng chính quyền và bà con chuyển dịch cơ cấu nông lâm nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, tăng cường trồng và bảo vệ rừng, tạo vành đai xanh biên giới.
Bên cạnh đó, các đơn vị BĐBP đã có nhiều hoạt động nhân văn và sáng tạo như: Chương trình “Mái ấm biên cương” trao tặng gần 10.000 căn nhà và công trình dân sinh; Chương trình “Bò giống giúp người nghèo nơi biên giới, hải đảo” đã tặng hơn 25.000 con bò cho các gia đình khó khăn; Đề án “Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp cho cán bộ, Nhân dân vùng biên giới, hải đảo” đã góp phần nâng cao trình độ, nhận thức pháp luật cho Nhân dân; Chương trình “Xuân biên phòng ấm lòng dân bản”; hàng năm tặng hàng chục công trình dân sinh và từ 10.000 đến trên 26.000.000 suất quà Tết cho đồng bào nghèo đã mang lại những mùa xuân ấm tình quân dân; Chương trình “Tặng cờ Tổ quốc và ảnh Bác Hồ”, trao tặng trên 210.000 lá cờ và 71.000 ảnh Bác cho Nhân dân khu vực biên giới, biển đảo, cổ vũ, động viên bà con vươn khơi bám biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Các chương trình, mô hình: “Xuân biên giới, Tết hải đảo”, Chiến dịch “Hãy làm sạch biển”, “Ngày Chủ nhật xanh”, “Thứ bảy tình nguyện”, “Tháng Thanh niên”, “Tháng ba biên giới”, “Tuổi trẻ BĐBP xung kích, dũng cảm đấu tranh phòng, chống tội phạm”, “Câu lạc bộ võ thuật”, “Câu lạc bộ Thanh niên Điều lệnh”; Chương trình “Mẹ đỡ đầu”; phong trào thi đua “Phụ nữ BĐBP trí tuệ - bản lĩnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ, xây dựng gia đình hạnh phúc, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, xây dựng người phụ nữ BĐBP theo tiêu chí “Bốn tốt; Công đoàn BĐBP tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, đã và đang được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các ban, ngành, đoàn thể và Nhân dân đánh giá cao.
Vừa tiến hành bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ an ninh biên giới, tấn công các loại tội phạm vừa tích cực tham gia củng cố cơ sở chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, lực lượng BĐBP luôn thể hiện rõ vai trò là một đội quân chiến đấu, đội quân công tác vững vàng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt những năm gần đây, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ BĐBP lần thứ XV, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn lực lượng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ “kép”: Quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia và thực hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19, lập nhiều, chiến công, thành tích xuất sắc, nổi bật trên mọi nhiệm vụ, mọi địa bàn. Những hy sinh, cống hiến của người lính quân hàm xanh trên mọi miền biên cương, trong mọi nhiệm vụ đã làm sáng đẹp thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, khắc sâu vào tiềm thức của các tầng lớp Nhân dân được Đảng và Nhà nước tôn vinh, ca ngợi.
Năm 2022, cấp ủy, chính quyền và Nhân dân khu vực biên giới nói chung, lực lượng BĐBP nói riêng vừa chào đón một sự kiện đặc biệt. Từ ngày 01/01/2022, Luật Biên phòng Việt Nam chính thức có hiệu lực thi hành, đây là văn bản pháp lý quan trọng được xây dựng trên cơ sở tinh thần Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28/9/2018 của Bộ Chính trị về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”. Điều đó đã tạo cơ sở quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới, xây dựng thế trận biên phòng toàn dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở khu vực biên giới, hoàn thiện cơ chế chính sách để xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, phù hợp với thực tiễn và phù hợp với pháp luật quốc tế, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới.
Toàn lực lượng năm 2022 có 03 tập thể và 05 cá nhân được tặng thưởng Huân chương Chiến công (hạng Nhất, Nhì, Ba); 02 tập thể, 114 cá nhân được tặng thưởng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc (hạng Nhất, Nhì, Ba); 1.946 cá nhân được tặng Huy chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng Nhất, Nhì, Ba); 06 tập thể và 08 cá nhân được tặng thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 03 cá nhân được tặng thưởng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua toàn quân”; 131 tập thể và 236 cá nhân được tặng thưởng Bằng khen của Bộ Quốc phòng, ngành Trung ương; 02 tập thể, 03 cá nhân được tặng thưởng Bằng khen của Tổng cục Chính trị; 480 tập thể và 923 cá nhân được tặng thưởng Bằng khen của Bộ Tư lệnh BĐBP.
Những năm tới, trên thế giới, hòa bình, hợp tác và hội nhập quốc tế là xu hướng chủ đạo nhưng tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, khó lường; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai khủng bố, nhất là xung đột quân sự tại Ukraina tiếp tục tác động sâu sắc đến kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trên Biển Đông tiềm ẩn nhiều bất ổn; các nước trong khu vực tăng cường tuần tra, kiểm soát trên biển, đặc biệt vùng biển còn chồng lấn, chưa phân định để khẳng định chủ quyền. Trên các tuyến biên giới và một số địa bàn trọng điểm, nhất là biên giới phía Bắc, Tây Nam tiềm ẩn phức tạp mới; tình trạng xuất nhập cảnh trái phép có xu hướng gia tăng. Các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị trong, ngoài nước tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”; yếu tố an ninh phi truyền thống đặc biệt là đại dịch Covid-19 sẽ diễn biến phức tạp, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, nảy sinh nhiều loại tội phạm có tổ chức, có vũ trang, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên biên giới, xuyên quốc gia… Khu vực Đông Nam Á tiếp tục phát triển năng động, tình hình chính trị - xã hội của đất nước cơ bản ổn định, kinh tế - xã hội tăng trưởng, quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[2]. Tuy nhiên, vấn đề chủ quyền biên giới, lãnh thổ, nhất là trên Biển Đông sẽ diễn biến phức tạp hơn, nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức, cạnh tranh quyết liệt.
Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên biển của Nhân dân ta sẽ còn lâu dài; thiên tai, dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, đời sống của một bộ phận nhân dân và lực lượng vũ trang, nhất là các đơn vị, địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo còn gặp nhiều khó khăn. Tình hình trên đặt ra cho công tác bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong giai đoạn mới ngày càng toàn diện, nặng nề và phức tạp, đòi hỏi đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao.
Trải qua 64 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành (03/3/1959-03/3/2023), dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, sự đồng lòng ủng hộ, yêu mến của Nhân dân, lực lượng BĐBP đã vượt qua bao khó khăn, gian khổ, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong từng giai đoạn lịch sử và xây đắp nên truyền thống vẻ vang của mình. Đó là giá trị tinh thần to lớn, tiếp thêm sức mạnh cho lớp lớp cán bộ chiến sĩ hôm nay vững vàng kiên định nơi tuyến đầu Tổ quốc, cùng chính quyền, lực lượng vũ trang và Nhân dân biên giới làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh biên giới quốc gia.
Phát huy truyền thống của lực lượng 02 lần được phong tặng Danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, cán bộ, chiến sĩ BĐBP tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội và Nhân dân giao phó; bảo vệ vững chắc chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong mọi tình huống; xây dựng BĐBP ngày càng vững mạnh, chính qui, hiện đại./.
[1] Điều động 5.830 cán bộ, chiến sĩ CANDVT phía bắc tăng cường cho các tỉnh phía Nam để triển khai thành lập 143 Đồn, 23 trạm dọc các tuyến biên giới, biển đảo các tỉnh phía Nam, khép kín vành đai bảo vệ chủ quyền biên cương, biển đảo của cả nước.
[2] Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại phiên khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ngày 26/01/2021.
Theo https://kimson.ninhbinh.gov.vn/

KỶ NIỆM 113 NĂM NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ (08/3/1910 - 08/3/2023)

Lịch sử ngày 8/3 bắt đầu từ phong trào đấu tranh đòi quyền sống của nữ công nhân ngành dệt nước Mỹ vào cuối thế kỳ XIX.
Ngày 8/3/1857, các công nhân ngành dệt đứng dậy chống lại những điều kiện làm việc khó khăn và tồi tàn của họ tại thành phố New York. Hai năm sau, cũng trong tháng 3, các nữ công nhân Hoa Kỳ trong hãng dệt thành lập công đoàn đầu tiên đã được bảo vệ và giành được một số quyền lợi.
Khoảng 50 năm sau, ngày 8/3/1908, 15.000 phụ nữ diễu hành trên các đường phố New York đòi tăng lương, giảm giờ làm việc và hủy bỏ việc bắt trẻ con làm việc. Sau đó, Đảng Xã hội Hoa Kỳ tuyên bố Ngày Quốc tế Phụ nữ là ngày 28/2/1909.
Tuy nhiên, đến ngày 8/3/1910, tại Hội nghị phụ nữ do Quốc tế thứ 2 (Quốc tế Xã hội chủ nghĩa) tổ chức, 100 đại biểu phụ nữ thuộc 17 nước đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Chủ tịch Hội nghị là bà Clara Zetkin, phụ nữ Đức, đã đề nghị chọn một ngày quốc tế phụ nữ để nhớ ơn những phụ nữ đã đấu tranh trên toàn thế giới. Hội nghị đã quyết định chọn ngày 8/3 làm Ngày Quốc tế Phụ nữ, ngày đoàn kết đấu tranh của phụ nữ với những khẩu hiệu: “Ngày làm việc 8 giờ”, “Việc làm ngang nhau”, “Bảo vệ bà mẹ và trẻ em”.
Từ đó, ngày 8/3 hàng năm trở thành ngày đấu tranh chung của phụ nữ lao động trên toàn thế giới, là biểu dương ý chí đấu tranh của phụ nữ khắp nơi trên thế giới đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội; vì quyền lợi hạnh phúc của phụ nữ và nhi đồng.
Ý nghĩa của ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3
Ở nước ta, vào ngày 8/3 còn là dịp kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, hai vị nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc đã có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ nguyên bờ cõi, giang sơn đất Việt.
Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng đã phất cờ khởi nghĩa và nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của các Lạc hầu, Lạc tướng, của những người yêu nước ở khắp các thị quận và đông đảo lực lượng là phụ nữ tham gia khởi nghĩa.
Được sự ủng hộ đông đảo của các lực lượng, cuộc Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã lan rộng khắp nơi. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Hai Bà Trưng, cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi, đập tan chính quyền đô hộ, buộc tướng Tô Định phải cải trang, cắt tóc, cạo râu trốn về nước.
Sau cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Bà Trưng Trắc được các tướng lĩnh và nhân dân suy tôn làm vua. Bà lên ngôi và lấy niên hiệu là Trưng Nữ Vương; đóng đô ở Mê Linh (huyện Mê Linh – tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay).
Năm 42, nhà Hán lại kéo quân sang xâm lược nước ta. Hai Bà lại một lần nữa ra quân, phất cờ khởi nghĩa, bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, do chênh lệch thế lực với địch quá lớn nên cuộc khởi nghĩa chỉ kéo dài 2 năm. Hai Bà đã hy sinh anh dũng để bảo vệ dân tộc.
Thắng lợi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà trưng được đánh giá là một bản anh hùng ca bất diệt, thể hiện ý chí độc lập và niềm tự hào dân tộc. Đồng thời, cuộc khởi nghĩa cũng là một minh chứng cho sức mạnh của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử nhân loại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tại Việt Nam, để thể hiện sự tôn vinh những người phụ nữ, một nửa thế giới, người ta thường tổ chức rất trang trọng, tràn ngập hoa và những lời chúc tốt đẹp. Ngày 8/3 cũng là ngày nam giới thể hiện sự chăm sóc yêu thương cho người phụ nữ mà họ yêu quý.
Trong 365 ngày của một năm, phụ nữ có riêng một ngày để được xã hội quan tâm và bù đắp những thiệt thòi, vất vả trong cuộc sống. Họ luôn âm thầm hy sinh và chịu đựng để xây dựng hạnh phúc gia đình. Vì vậy, họ xứng đáng nhận được sự tôn trọng và quan tâm hơn nữa từ một nửa kia còn lại của thế giới, chia sẻ với họ những khó khăn trong công việc và gia đình.
Không ai có thể phủ nhận vai trò và trách nhiệm to lớn của người phụ nữ thời hiện đại: Họ vừa là người nội trợ, vừa tham gia lao động xã hội, đóng góp sức lực của mình vào sự phát triển của đất nước, không những thế họ còn giữ một thiên chức cao cả là một người mẹ, mang nặng đẻ đau ra những đứa con và nuôi dạy chúng thành người. Phụ nữ ngày nay đang dần khẳng định mình là phái đẹp chứ không còn là phái yếu như trước kia.
                                                                                   Nguồn: vietnamnet.vn

KỶ NIỆM 11 NĂM NGÀY QUỐC TẾ HẠNH PHÚC (20/3/2012 - 20/3/2023)

Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3: Yêu thương và chia sẻ 
Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 được chính thức công bố tại Hội nghị của Liên Hợp Quốc (tháng 6/2012) theo đề xuất của Vương quốc Bhutan, một quốc gia ở khu vực Nam Á, nằm sâu trong lục địa phía Đông dãy Himalaya.
Từ năm 1970, bên cạnh các chỉ số về kinh tế thường được dùng để đánh giá về sự giàu có vật chất, nhà vua của Vương quốc Bhutan đã đưa ra một cách thức mới đánh giá sự thịnh vượng của xã hội, đó là thông qua chỉ số hạnh phúc quốc gia. Chỉ số này được tính toán dựa trên các yếu tố về sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân. Bhutan là quốc gia có chỉ số hạnh phúc cao đã ghi nhận uy thế của hạnh phúc quốc gia hơn là thu nhập quốc gia và nổi tiếng với việc thực thi mục tiêu tổng hạnh phúc quốc gia thay vì tổng sản phẩm quốc nội. Đại diện quốc gia Bhutan cho rằng, nhu cầu về Ngày Hạnh phúc này là đối với tất cả quốc gia và con người trên toàn thế giới để có những bước vượt lên trên sự khác biệt giữa các nước và con người trên toàn thế giới và liên kết, đoàn kết toàn nhân loại.
Mặt khác, Liên Hợp Quốc chọn ngày 20/3 là Ngày Quốc tế Hạnh phúc vì đây là ngày đặc biệt trong năm, khi mặt trời nằm ngang đường xích đạo, nên ngày này có độ dài ngày và đêm bằng nhau - biểu tượng cho sự cân bằng, hài hòa của vũ trụ, cũng là biểu tượng của sự cân bằng giữa âm và dương, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ước mơ và hiện thực…
Đến nay, đã có 193 quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam cùng cam kết ủng hộ, hành động, tích cực và nỗ lực nhiều hơn để xây dựng một thế giới đại đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống, xây dựng xã hội công bằng, phát tiển bền vững, đem lại hạnh phúc cho nhân loại.
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 do Liên Hợp Quốc phát động, ngày 26/12/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2589/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tổ chức các hoạt động nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3 hằng năm”. Việc tổ chức Ngày Quốc tế Hạnh phúc của Việt Nam là để cùng thế giới biểu thị mong muốn, niềm tin và quyết tâm phấn đấu vì một thế giới hòa bình, không có chiến tranh, không có đói nghèo; một thế giới phát triển thịnh vượng và bền vững; một thế giới mà tất cả mọi người dù khác màu da, dân tộc, tôn giáo đều được hưởng trọn vẹn hạnh phúc.        
Để nâng cao nhận thức của các cấp, ngành, địa phương, các tổ chức, gia đình và cá nhân trên địa bàn về ý nghĩa Ngày Quốc tế Hạnh phúc, ngày 03/3/2022, UBND huyện Hưng Nguyên ban hành Kế hoạch số 77/KH-UBND về tổ chức các hoạt động nhân Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 , với chủ đề “Yêu thương và chia sẻ”.
Các nội dung hoạt động: Tập trung tuyên truyền lịch sử và ý nghĩa Ngày Quốc tế Hạnh phúc; các chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước về an sinh xã hội, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc; biểu dương các tấm gương người tốt, việc tốt; các hoạt động xây dựng gia đình hạnh phúc, cộng đồng hạnh phúc; phê phán những biểu hiện, hành vi bạo lực gia đình, vi phạm pháp luật về gia đình; khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức, cộng đồng có hoạt động tích cực đem lại hạnh phúc cho người thân, gia đình, cộng đồng. Tổ chức các hoạt động từ thiện, thăm hỏi, giúp đỡ các cá nhân, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đặcbiệt trong giai đoạn dịch Covid - 19 đang diễn biến phức tạp; Tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể thao,…
Phát động Tuần lễ Hạnh phúc trên địa bàn huyện từ ngày 14/3 - 20/3/2022, với các khẩu hiệu tuyên truyền như: “Hưởng ứng ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3!”; “Hãy hành động vì gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh!”; “Xây dựng môi trường sống, học tập và làm việc hạnh phúc!”; “Tôn trọng, lắng nghe và chia sẻ để giữ gìn hạnh phúc gia đình”; “Bảo vệ trẻ em bằng gia đình hạnh phúc, bình yên”; “Hãy để tình yêu thương sưởi ấm gia đình bạn!”.
Để các hoạt động hưởng ứng ngày Quốc tế Hạnh phúc được lan tỏa rộng rãi, UBND Huyện yêu cầu việc tổ chức tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng như: Tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng; xây dựng chuyên trang, chuyên mụ; viết tin, bài đăng trên Cổng TTĐT; Tổ chức treo băng rôn, khẩu hiệu về chủ đề và thông điệp nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc trên các trục đường chính của các huyện, xã, thị trấn; các cơ quan, công sở và tại trụ sở UBND các xã, phường, thị trấn. Căn cứ vào tình hình dịch Covid - 19 trên địa bàn để tổ chức các hoạt động hưởng ứng đảm bảo ý nghĩa, thiết thực.

Để ngày Quốc tế Hạnh phúc có ý nghĩa đúng như chủ đề, chúng ta hãy cùng nhau chung sức, đồng lòng, trách nhiệm, sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu phát triển an sinh xã hội. Hãy cùng nhau kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, hiếu nghĩa của dân tộc Việt Nam. Hãy yêu thương và sẻ chia để tìm thấy cho mình và giúp những người quanh ta, trước hết là gia đình, là những người thân có nhiều giây phút hạnh phúc đích thực!
Nguồn: https://hungnguyen.nghean.gov.vn/
KỶ NIỆM 77 NĂM NGÀY THỂ THAO VIỆT NAM (27/3/1946 - 27/3/2023)

Ngay sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Bác cũng là người khai sinh nền TDTT của chế độ mới. Ngày 30-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ liên hiệp lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ký Sắc lệnh số 14, thành lập Nha Thể dục Trung ương trong Bộ Thanh niên. Với mục tiêu “xét vấn đề thể dục rất cần thiết để tăng bổ sức khỏe quốc dân và cải tạo nòi giống Việt Nam”, Sắc lệnh nêu rõ: Nha thể thao TW có nhiệm vụ “liên lạc mật thiết với Bộ Y tế và Bộ Quốc gia giáo dục để nghiên cứu và thực hành thể dục trong toàn quốc”.
Gần hai tháng sau, căn cứ theo quyết định của Quốc dân đại hội VN (Quốc hội khoá 1) họp ngày 2-3-1946 định sự tổ chức của Chính phủ liên hiệp kháng chiến, thay mặt Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 27-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 38 thiết lập Nha Thanh niên và Thể dục trong Bộ Quốc gia giáo dục. Nha gồm có Phòng Thanh niên TW và Phòng Thể dục TW. Trên thực tế, với những quy định của Bộ Quốc Gia giáo dục, Phòng Thể dục TW đảm nhiệm toàn bộ chức năng, nhiệm vụ của Nha Thể dục TW cũ.
Cũng trong ngày 27-3-1946, trên các báo Cứu Quốc, Việt Nam khỏe và nhiều tờ báo khác đăng lời “Hồ Chủ tịch hô hào đồng bào tập thể dục: Sức khoẻ và thể dục”. Trong bài viết, Người kêu gọi: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân khỏe mạnh tức là cả nước khỏe mạnh. Vậy nên luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người dân yêu nước…”
Ngày 29/1/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ký Quyết định số 25/CT lấy ngày 27/3 hằng năm làm “Ngày Thể thao Việt Nam”. Quyết định ghi rõ Ngày Thể thao Việt Nam được tổ chức hằng năm nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân và phong trào rèn luyện thân thể và các hoạt động thể thao văn hóa lành mạnh. Ngày 27/3/1946 chính thức là ngày thành lập ngành thể dục thể thao Việt Nam.
Đây là văn kiện lịch sử, được coi như cương lĩnh đầu tiên về xây dựng nền TDTT cách mạng của nước Việt Nam mới, thể hiện tập trung tư tưởng Hồ Chí Minh về TDTT phục vụ sức thịnh. Theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, nhiều nơi trong cả nước dấy lên phong trào Khoẻ vì nước rầm rộ trong năm 1946.
Chỉ thị 36/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 24/3/1994 về công tác thể dục thể thao trong giai đoạn mới đã chỉ rõ: “Mục tiêu cơ bản, lâu dài của công tác thể dục thể thao là hình thành nền thể dục thể thao phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần của nhân dân và phấn đấu đạt được vị trí xứng đáng trong các hoạt động thể thao quốc tế, trước hết là ở khu vực Đông Nam Á”.
Với những ý nghĩa lịch sử sâu sắc đó, ngày 27-3 được Nhà nước ta lấy làm “Ngày Thể thao Việt Nam” hàng năm để khích lệ phong trào TDTT quần chúng ngày càng được phát triển, nâng cao thành tích thể thao chuyên nghiệp, dần dần đưa TDTT trở thành một bộ phận của văn hóa dân tộc, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nguồn: https://tdtt.gov.vn

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò của thanh niên và sự vận dụng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, thanh niên là rường cột, là chủ nhân tương lai của đất nước và luôn quan tâm giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện để thanh niên Việt Nam tham gia tích cực, có hiệu quả vào sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng đó của Người luôn được Đảng, Nhà nước ta thấm nhuần và vận dụng sáng tạo trong giai đoạn cách mạng mới.
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN
Trong Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”(1), đó là một nhiệm vụ trọng đại và thường xuyên, lâu dài mà Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị phải chú trọng thực hiện. Trong mọi thời kỳ, mọi giai đoạn của lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là “kim chỉ nam”, là ngọn hải đăng soi đường việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng.
Tháng 5/1925, để chuẩn bị cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cách mạng đầu tiên mà tất cả học viên đều là những thanh niên, trí thức trẻ yêu nước; ra tờ báo cách mạng đầu tiên, lấy tên là Báo Thanh niên. Năm 1925, Người đã viết thư “Gửi Thanh niên An Nam”, nhấn mạnh: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”(2). Sở dĩ viết như vậy, bởi Người cho rằng “Tính trung bình, thanh niên chiếm độ 1 phần 3 tổng số nhân dân - tức là một lực lượng to lớn”(3), nếu lực lượng chiếm số đông như vậy trong xã hội mà không hồi sinh, thì xã hội đó tất sẽ suy vong!
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã tập trung chỉ đạo xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, đặc biệt chú trọng đến lực lượng những người trẻ tuổi. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng tại Pác Bó - Cao Bằng (5-1941) đã quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh) và các hội cứu quốc, trong đó có “Đội Nhi đồng cứu quốc” và trao cho Đoàn phụ trách công tác thiếu nhi. Cùng với đó, Người đã chỉ đạo đổi tên Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương thành Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam. Ngày 2/9/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch ra mắt quốc dân đồng bào, công bố thành lập 13 bộ, trong đó có Bộ Thanh niên. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao và dành cho thế hệ trẻ sự quan tâm đặc biệt: “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”(4), đồng thời đưa ra dự báo hết sức đúng đắn, mà về sau đã trở thành hiện thực: “Với một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”(5). Xứng đáng với sự tin yêu, mong đợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ; trong thời kỳ kiến thiết đất nước sau chiến tranh cũng như trong thời kỳ đổi mới, thanh niên Việt Nam luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nêu cao tinh thần xung phong, tình nguyện, xung kích, đi đầu để hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ được Đảng, Bác Hồ và dân tộc tin tưởng, giao phó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ vai trò của thanh niên trên nhiều bình diện xã hội và trong mối quan hệ kết nối không thể tách rời giữa quá khứ với tương lai: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”(6); do đó, thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh và đặt ra nhiệm vụ cho Đảng là cần phải chăm lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Người cho rằng: “Thanh niên ta rất hăng hái. Ta biết họp lòng hăng hái đó lại và dìu dắt đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ”(7). Đoàn là hạt nhân để tập hợp, đoàn kết thanh niên, đồng thời là người trực tiếp tổ chức, giáo dục, động viên thanh niên đi theo Đảng làm cách mạng. Do vậy, Người nhấn mạnh: “Đoàn Thanh niên là cánh tay và đội hậu bị của Đảng, là người phụ trách dắt dìu các cháu nhi đồng”(8). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, Đoàn Thanh niên cần thường xuyên quan tâm công tác xây dựng Đoàn vững mạnh, phải củng cố tổ chức đoàn, phải đoàn kết nội bộ chặt chẽ và phải đoàn kết rộng rãi các tầng lớp thanh niên. Người nêu rõ: “Tổ chức của Đoàn phải rộng hơn Đảng”(9) và muốn tập hợp, thu hút đông đảo thanh niên, cần lưu ý: “Về phần mình, thì Đoàn phải nghiên cứu tìm ra nhiều hình thức và phương pháp thích hợp để đoàn kết và tổ chức thanh niên một cách rộng rãi và vững chắc, để làm tròn những nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao phó cho thanh niên”(10). Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác vận động, đoàn kết và tập hợp các tầng lớp thanh niên tham gia phong trào thi đua yêu nước của Đoàn được tích cực đẩy mạnh ở các thời kỳ. Nhờ đó đã huy động thanh niên Việt Nam xung kích, đi đầu trong kháng chiến, kiến quốc trước đây cũng như xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay.
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ CHĂM LO, ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo đến việc bồi dưỡng, giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức rèn luyện đạo đức cách mạng cho thanh niên. Nói chuyện với thanh niên tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ II, ngày 7/5/1958, Người nhấn mạnh: Thanh niên bây giờ là một thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác tự nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình. Tức là thanh niên phải có đức, có tài(11).
Về phương diện chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng thanh niên, với quan điểm “đạo đức là gốc của người cách mạng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho thanh niên, giáo dục bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ. Giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ là nhằm làm cho thế hệ trẻ trở thành những người công dân có ích, những người chiến sĩ tốt, những người cách mạng chân chính, với những phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”, yêu thương con người, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; vì vậy, thanh niên phải ra sức cống hiến, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc do Đảng lãnh đạo. Muốn vậy, thanh niên cần thấm nhuần mục tiêu, lý tưởng của Đảng với phương châm: Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì; mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?
Thanh niên không chỉ cần được giáo dục về đạo đức, mà còn cần được bồi dưỡng tri thức lý luận chính trị và học vấn, khoa học - kỹ thuật, quân sự. Nếu không học tập, không có học vấn, thì không thể nào tiếp thu được chuyên môn nghiệp vụ; song, nếu chỉ học tập văn hóa, khoa học - kỹ thuật mà không học tập chính trị, thì cũng như người nhắm mắt mà đi. Người cho rằng, việc nâng cao trình độ chính trị, học vấn, khoa học - kỹ thuật, quân sự là điều kiện cơ bản để tuổi trẻ cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân, là điều kiện để bảo đảm khả năng hoạt động thực tiễn của họ. Bên cạnh đó, thanh niên cần được giáo dục nếp sống văn hóa và giáo dục về thể chất.
Về phương diện phát huy thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận của thanh niên đối với Đảng, với nhân dân và cộng đồng dân tộc, xã hội. Nói cách khác, thanh niên được rèn luyện về lý tưởng, đạo đức, nhân cách, được học tập, trau dồi kiến thức, văn hóa, thể chất là để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì sự nghiệp chung, chứ không phải hưởng thụ cá nhân, vị tha chứ không vị kỷ. Từ nhận thức đến hành động, thanh niên phải ra sức cống hiến, phát huy những phẩm chất của mình để phấn đấu là người cộng sản trẻ. Mỗi khi Đảng, Nhà nước, nhân dân và xã hội cần thì thanh niên xung phong tham gia, đi đầu để thực hiện những nhiệm vụ đột xuất hoặc thường xuyên trong chiến đấu, sản xuất, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh,... Đó là “kim chỉ nam” cho tinh thần xung kích, tình nguyện, sáng tạo, không ngại dấn thân của thanh niên trong mọi giai đoạn của sự nghiệp cách mạng.
Về phương pháp giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ, Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải tránh thái độ thành kiến, hẹp hòi, bảo thủ đối với thanh niên. Bởi theo Người, thanh niên sống trong điều kiện mới tất yếu có những nhu cầu, lợi ích khác với cha, anh của họ, vì thế, không nên xem xét thanh niên một cách cứng nhắc, trước sao nay vậy. Người nhấn mạnh, giáo dục là một khoa học, cần phải đi sâu vào đời sống, hiểu rõ tâm lý của thanh niên và giúp đỡ họ giải quyết vấn đề một cách thiết thực, phải biết kết hợp giữa việc học tập với việc chơi, dạy từ dễ đến khó; giáo dục phải gắn liền với thực tiễn xã hội, học phải đi đôi với hành. Công tác thanh niên, theo Người, là quá trình tác động đồng bộ của các chủ thể từ gia đình, đoàn thể, xã hội cho đến các cấp ủy và chính quyền để đào tạo, giáo dục, phát huy thanh niên. Thấy được vai trò to lớn của gia đình, nhà trường và các tổ chức đoàn thể, nhất là Đoàn Thanh niên trong việc giáo dục thanh niên, Người chỉ rõ: “Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt hằng ngày của thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn nắn, sửa chữa(12). Thanh niên và tổ chức Đoàn phải xứng đáng với vai trò là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị đáng tin cậy của Đảng trong việc giáo dục, đồng hành, phát huy sức mạnh của tuổi trẻ, cống hiến hết mình cho sự nghiệp của Đảng, của đất nước.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CHĂM LO, ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Theo số liệu thống kê, hiện nay nước ta có khoảng 22,1 triệu người trong độ tuổi thanh niên, chiếm khoảng 22,5% dân số cả nước, chiếm khoảng 35% lực lượng lao động toàn xã hội. Thanh niên có mặt ở tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội, có mặt ở tất cả các dân tộc và tôn giáo, ở tất cả các địa phương, các ngành, các cấp, ở trong và ngoài nước. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thế hệ trẻ Việt Nam luôn kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Thanh niên Việt Nam đã và đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm; ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương diện, tích cực lao động, sản xuất, nhanh chóng tiếp thu những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, để cùng với toàn Đảng, toàn dân “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(13). Các phong trào hành động cách mạng do Đoàn phát động đã bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, phát huy những đặc tính của thanh niên, khơi dậy tinh thần xung kích, tình nguyện, sáng tạo của tuổi trẻ và tạo môi trường thuận lợi để thanh niên phát triển toàn diện, cống hiến và trưởng thành.
Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Trong suốt chiều dài lịch sử, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị quan trọng về thanh niên và công tác thanh niên(14). Đảng luôn đặt niềm tin vững chắc vào thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất nước; chăm lo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là cánh tay đắc lực và đội dự bị tin cậy của Đảng. Đảng ta cũng không ngừng phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận và nhận thức về công tác thanh niên. Từ chỗ xác định Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức trung kiên gần Đảng, đến Đoàn là tổ chức gần Đảng nhất, là cánh tay đắc lực và đội dự bị tin cậy của Đảng. Trong nhận định về mối quan hệ giữa Đảng và Đoàn, trước đây, các văn kiện của Đảng xác định Đoàn là đội “hậu bị” tin cậy của Đảng, sau đó, Đảng đã điều chỉnh thành Đoàn là đội “dự bị” tin cậy của Đảng. Điều đó thể hiện rõ nét sự phát triển về nhận thức, không ngừng hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng ta, sự đổi mới, sáng tạo trong phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác thanh niên.
Chủ trương của Đảng đã được cụ thể hóa thành chính sách đối với thanh niên và công tác thanh niên. Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển thanh niên giai đoạn 2011 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2030, ban hành Luật Thanh niên năm 2020, cùng các chính sách dành cho thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế(15). Từ năm 2012, Nghị quyết liên tịch về Quy chế phối hợp công tác giữa Chính phủ với Ban Chấp hành Trung ương Đoàn đã được ban hành. Chính phủ, các bộ, ban, ngành, địa phương đã thể chế hóa chủ trương của Đảng và tổ chức triển khai nhiều chính sách, chương trình, dự án đối với thanh niên và công tác thanh niên. Chính phủ đã thành lập Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt Nam, là cơ quan tư vấn về công tác thanh niên; giao Bộ Nội vụ tham mưu cho Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thanh niên, thành lập Vụ Công tác thanh niên thuộc Bộ Nội vụ; các bộ, ban, ngành đều phân công cán bộ phụ trách phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong công tác thanh niên. Cơ chế phối hợp tương đối rõ ràng, góp phần tạo điều kiện để Đảng lãnh đạo, Chính phủ thống nhất quản lý về công tác thanh niên.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng tổ chức đoàn, công tác thanh niên được đặt trong tổng thể mối quan hệ giữa các thành tố của hệ thống chính trị, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cả hệ thống chính trị quan tâm, chăm lo cho thanh niên và tổ chức đoàn, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội; hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với thanh niên và công tác thanh niên từng bước hoàn thiện, bảo đảm cho thanh niên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, tạo cơ sở pháp lý để tổ chức đoàn hoạt động, phát huy vai trò của thanh niên trong đời sống xã hội; đáp ứng nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng chính đáng của thanh niên; tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển thanh niên và công tác thanh niên.
CHĂM LO, ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu phát triển đất nước, cụ thể: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(16). Đây chính là điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh niên thể hiện tài năng, phát huy sức trẻ, cống hiến nhiều hơn cho đất nước. Sự quan tâm của Ðảng, Nhà nước, của gia đình, nhà trường và xã hội đối với thế hệ trẻ không ngừng tăng lên, là cơ sở, nguồn lực và điều kiện quan trọng để thanh niên phát triển tốt hơn. Khoa học - công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức sẽ tạo ra những cơ hội mới, cho phép thanh niên tiếp cận với công nghệ hiện đại và tri thức văn minh của nhân loại trong thời đại mới. Trước yêu cầu của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thanh niên, công tác thanh niên, cũng như yêu cầu của công tác chăm lo, bồi dưỡng và phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước ta xác định tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục khẳng định và nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của thế hệ trẻ trong giai đoạn cách mạng mới.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng nêu rõ quan điểm chỉ đạo nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: “Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước”(17); Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là điều kiện thuận lợi để thế hệ trẻ thể hiện trí tuệ, tài năng, sức trẻ, nhiệt huyết, khả năng cống hiến hết mình vì Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước có hội nhập và sánh vai được với các cường quốc năm châu hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn nhờ vào việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ trẻ. Vì vậy, các cấp, các ngành cần nhận thức sâu sắc hơn công tác thanh niên, nhất là chính thế hệ trẻ phải ý thức đầy đủ về vị trí, vai trò và sứ mệnh của mình, nâng cao tinh thần trách nhiệm, không ngừng nỗ lực, phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức cách mạng để thực hiện sứ mệnh được Đảng giao phó, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thứ hai, thường xuyên đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, văn hóa, đạo đức cho thế hệ trẻ.
Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước ta để giúp thế hệ trẻ nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức xã hội; góp phần tích cực đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ có đủ phẩm chất, năng lực làm nhiệm vụ xung kích, sáng tạo, kế tục sự nghiệp vẻ vang của Đảng, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2017 - 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, cần tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ. Đây vừa là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt, thường xuyên, vừa là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư thỏa đáng; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội”(18).
Thứ ba, phát huy hơn nữa vai trò xung kích, sáng tạo của thanh niên trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của thế hệ trẻ trong tham gia các phong trào hành động cách mạng, cấp ủy, chính quyền các cấp cần có nhiều hình thức và biện pháp phù hợp để khơi dậy tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ, động viên thanh niên đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị, chuyên môn ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Chú trọng nguyên tắc đào tạo gắn với bồi dưỡng, tin tưởng giao nhiệm vụ, tạo điều kiện để cán bộ trẻ được tham gia trải nghiệm, học tập, phát huy năng lực, sở trường của mình.
Thông qua các phong trào hành động cách mạng sẽ tạo ra môi trường lành mạnh để thế hệ trẻ tự rèn luyện, xác định được lẽ sống cao đẹp cho chính bản thân mình. Các cấp, các ngành cần có nhiều hình thức hoạt động phong phú, đa dạng, phù hợp với thế hệ trẻ, phát huy sức trẻ tham gia đóng góp trên các lĩnh vực, các địa bàn khó khăn, thể hiện rõ vai trò xung kích của thanh niên, với tinh thần “đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Tiếp tục triển khai hiệu quả các phong trào hành động cách mạng, như “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc” trong từng nhóm đối tượng và duy trì các phong trào đặc thù; từ đó, xây dựng và nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo của các gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trong xã hội và trong chính thế hệ trẻ.
Thứ tư, tạo môi trường thuận lợi trong đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế cho thanh niên.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp; làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(19). Các cấp, ban, bộ, ngành và từng cơ quan, đơn vị cần thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho thế hệ trẻ; chú trọng học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn trong đào tạo, bồi dưỡng văn hóa, khoa học - kỹ thuật, công nghệ, quân sự, ngoại ngữ và thường xuyên bồi dưỡng thể chất, rèn luyện thân thể cho thế hệ trẻ đủ sức khỏe, trí tuệ tham gia hiệu quả vào các phong trào hành động cách mạng. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện để thanh niên chủ động tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu, như giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo,... góp phần nâng cao vị thế, tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT TĂNG CƯỜNG CHĂM LO, ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG, PHÁT HUY MẠNH MẼ VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN TRONG THỜI GIAN TỚI
Một là, Đảng tiếp tục quan tâm, lãnh đạo hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả thực hiện các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thanh niên, đặc biệt là tổ chức thực thi có hiệu quả Luật Thanh niên năm 2020, Chiến lược phát triển thanh niên giai đoạn 2021 - 2030. Trong đó, đề xuất với Bộ Chính trị chỉ đạo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 và 10 năm thực hiện Kết luận số 80-KL/TW ngày 25/122013 của Bộ Chính trị. Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
Hai là, đề nghị các cấp ủy, chính quyền tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII; có cơ chế động viên, khuyến khích, kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đồng thời, phát hiện, tuyên truyền, nhân rộng điển hình tốt, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực. Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ phải gắn với đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm” trong các cơ quan nhà nước, trong mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp và trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Sự nêu gương của cán bộ, đảng viên chính là tấm gương sống giá trị nhất để đoàn viên, thanh niên Việt Nam ra sức phấn đấu học tập, lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và gìn giữ, bảo tồn, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Ba là, các cấp ủy, chính quyền tiếp tục quan tâm phát triển lực lượng đảng viên trẻ từ đoàn viên, thanh niên để tạo nguồn sinh lực mới cho Đảng, bảo đảm thực hiện chỉ tiêu 70% số đảng viên mới kết nạp là từ đoàn viên thanh niên theo Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008; đồng thời, tiếp tục quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát hiện, quy hoạch, sử dụng đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, tài năng trẻ; tạo cơ chế, môi trường để cán bộ trẻ đóng góp, cống hiến tài năng cho tổ chức, cho quê hương, đất nước.
Bốn là, thanh niên, thiếu niên luôn có xu hướng tìm tòi cái mới, sáng tạo, ưa đối thoại. Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền tham gia của trẻ em và lắng nghe ý kiến của thanh niên. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trân trọng đề nghị các cấp ủy, chính quyền các cấp định kỳ, thường xuyên gặp gỡ, đối thoại với thanh niên, thiếu niên, nhi đồng thông qua các diễn đàn do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh tổ chức theo quy định của Luật Trẻ em năm 2016, Luật Thanh niên năm 2020. Bên cạnh đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cần quan tâm, tin tưởng giao nhiệm vụ, thử thách, tạo điều kiện, cổ vũ, động viên thanh niên và các tổ chức của thanh niên thực hiện các chương trình, dự án, các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, để phát huy mạnh mẽ vai trò của thanh niên trong tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, trân trọng đề nghị Nhà nước, chính quyền các cấp quan tâm đầu tư, bố trí quỹ đất, xây dựng, nâng cấp và phát huy có hiệu quả các thiết chế phục vụ hoạt động học tập, rèn luyện, vui chơi giải trí bổ ích cho thanh, thiếu nhi, đặc biệt là hệ thống cung thiếu nhi, trung tâm hoạt động thanh, thiếu nhi, các điểm sinh hoạt, vui chơi cho thanh niên, thiếu niên trên địa bàn dân cư.
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con đường xây dựng, tổ chức thanh niên thành lực lượng cách mạng, phát huy mọi tiềm năng to lớn của thanh niên vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đào tạo bồi dưỡng thanh niên cả về thể lực - tâm lực - trí lực, phát triển toàn diện, có năng lực sáng tạo, có bản lĩnh, ý chí vươn lên trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(20). Trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thế hệ trẻ Việt Nam luôn kiên định ý chí, chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm; không ngừng tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương diện để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới./.
BÙI QUANG HUY
Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng
Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh

________________________ 

(1) (5) (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.15, tr.612, 79, 77.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.144.

(3) (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.215, 439.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.216.

(6) (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.298, 47.

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.331.

(11) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.399.

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.266.

(13) (16) (18) (19) (20) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr. 35-36, 112,168, 168, 107.
(14) Đảng đã nhiều lần ban hành các nghị quyết, kết luận, chỉ thị quan trọng về thanh niên và công tác thanh niên, tiêu biểu, như Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Kết luận số 80-KL/TW ngày 25/12/201, của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”...
(15) Như: Đề án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ có trình độ đại học về làm phó chủ tịch ủy ban nhân dân xã thuộc 62 huyện nghèo của cả nước; Quyết định số 1501/QĐ-TTg ngày 28/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án "Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015 - 2020”; Quyết định số 2264-QĐ/TTg ngày 16/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 - 2020”; Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 11/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chương trình “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng giai đoạn 2021 - 2030”; Quyết định số 311/QĐ-TTg ngày 5/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chương trình “Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng trên không gian mạng, giai đoạn 2022 - 2030”.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2009, t. 67, tr. 759.

(Nguồn: TC Cộng sản)
NHỮNG QUY ĐỊNH, CHÍNH SÁCH NỔI BẬT CÓ HIỆU LỰC TRONG THÁNG 3/2023

Tăng mức bồi dưỡng bằng hiện vật đối với người lao động; hướng dẫn quản lý, thu chi tiền công đức, tài trợ cho di tích, hoạt động lễ hội; 7 vị trí công tác định kỳ chuyển đổi lĩnh vực khoa học và công nghệ;... là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 3/2023.
Từ ngày 1/3/2022 tăng mức bồi dưỡng bằng hiện vật đối với người lao động
Điều kiện cấp giấy phép tài nguyên nước
Nghị định 02/2023/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 01/02/2023 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước có hiệu lực từ ngày 20/3/2023.
Trong đó, Nghị định nêu rõ quy định về điều kiện cấp giấy phép tài nguyên nước (Giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt, nước biển; giấy phép thăm dò nước dưới đất; giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất) phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
1- Đã hoàn thành việc thông báo, lấy ý kiến đại diện cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định.
2- Có đề án, báo cáo phù hợp với quy hoạch về tài nguyên nước, quy hoạch tỉnh, quy định vùng hạn chế khai thác nước dưới đất, quy hoạch chuyên ngành có liên quan đã được phê duyệt hoặc phù hợp với khả năng nguồn nước nếu chưa có các quy hoạch và quy định vùng hạn chế khai thác nước dưới đất. Đề án, báo cáo phải do tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực theo quy định lập; thông tin, số liệu sử dụng để lập đề án, báo cáo phải bảo đảm đầy đủ, rõ ràng, chính xác và trung thực.
Phương án thiết kế công trình hoặc công trình khai thác tài nguyên nước phải phù hợp với quy mô, đối tượng khai thác và đáp ứng yêu cầu bảo vệ tài nguyên nước, môi trường.
3- Đối với trường hợp khai thác, sử dụng nước mặt có xây dựng hồ, đập trên sông, suối phải đáp ứng các yêu cầu quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 của Luật Tài nguyên nước, điều kiện quy định tại (1) và (2) nêu trên và các điều kiện sau đây:
Có phương án bố trí thiết bị, nhân lực để vận hành hồ chứa, quan trắc, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng nước; phương án quan trắc khí tượng, thủy văn, tổ chức dự báo lượng nước đến hồ để phục vụ vận hành hồ chứa theo quy định đối với trường hợp chưa có công trình; có quy trình vận hành hồ chứa; có thiết bị, nhân lực hoặc có hợp đồng thuê tổ chức, cá nhân có đủ năng lực để thực hiện việc vận hành hồ chứa, quan trắc, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng nước, quan trắc khí tượng, thủy văn và dự báo lượng nước đến hồ để phục vụ vận hành hồ chứa theo quy định đối với trường hợp đã có công trình.
Nghị định nêu rõ, trường hợp thăm dò, khai thác, sử dụng nước mà chưa có giấy phép tài nguyên nước, cơ quan có thẩm quyền xem xét quyết định cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước khi đáp ứng các điều kiện cấp phép theo quy định trên.
Việc xử lý các hành vi vi phạm do thăm dò, khai thác, sử dụng nước không có giấy phép tài nguyên nước thực hiện theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước.
Từ ngày 1/3/2022 tăng mức bồi dưỡng bằng hiện vật đối với người lao động
Theo Thông tư 24/2022/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định việc bồi dưỡng bằng hiện vật đối với người lao động làm việc trong điều kiện có yếu tố nguy hiểm, yếu tố độc hại có hiệu lực từ ngày 1/3/2023, mức bồi dưỡng bằng hiện vật được tính theo định suất hàng ngày và có giá trị bằng tiền như sau:
- Mức 1: 13.000 đồng (tăng 3.000 đồng);
- Mức 2: 20.000 đồng (tăng 5.000 đồng);
- Mức 3: 26.000 đồng (tăng 6.000 đồng);
- Mức 4: 32.000 đồng (tăng 7.000 đồng).
Đối với người lao động đủ điều kiện hưởng bồi dưỡng thì mức bồi dưỡng cụ thể theo từng nghề, công việc được quy định tại Phụ lục I của Thông tư 24/2022/TT-BLĐTBXH và được áp dụng theo thời gian làm việc tương ứng như sau:
- Nếu làm việc từ 50% thời giờ làm việc bình thường trở lên của ngày làm việc thì được hưởng cả định suất bồi dưỡng;
- Nếu làm dưới 50% thời giờ làm việc bình thường của ngày làm việc thì được hưởng nửa định suất bồi dưỡng;
- Trong trường hợp người lao động làm thêm giờ, định suất bồi dưỡng bằng hiện vật được tăng lên tương ứng với số giờ làm thêm theo nguyên tắc trên.
Hướng dẫn quản lý, thu chi tiền công đức, tài trợ cho di tích, hoạt động lễ hội
Thông tư số 04/2023/TT-BTC hướng dẫn quản lý, thu chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội và tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội, có hiệu lực thi hành từ ngày 19/3/2023.
Thông tư 04/2023/TT-BTC quy định rõ về tiếp nhận tiền công đức, tài trợ. Theo đó, mở tài khoản tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng thương mại để phản ánh việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội theo hình thức chuyển khoản, phương thức thanh toán điện tử.
Người đại diện cơ sở tín ngưỡng tự quyết định và chịu trách nhiệm về tiếp nhận, quản lý, sử dụng tiền công đức, tài trợ cho việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích và hoạt động lễ hội, bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật khác có liên quan.
Bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên Hội đồng quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực tài chính
Thông tư số 11/2023/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về Hội đồng quản lý và tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên Hội đồng quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực tài chính có hiệu lực từ ngày 31/3/2023.
Theo Thông tư, cơ cấu Hội đồng quản lý gồm: Đại diện cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị sự nghiệp công lập, gồm đại diện của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập mà không phải là đơn vị sự nghiệp công lập, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp (nếu có); người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập; viên chức của đơn vị sự nghiệp công lập; đại diện tổ chức, đơn vị liên quan.
Số lượng thành viên Hội đồng quản lý từ 05 đến 11 người, gồm Chủ tịch Hội đồng quản lý, Thư ký Hội đồng quản lý và các thành viên Hội đồng quản lý. Tùy theo yêu cầu nhiệm vụ, Hội đồng quản lý có thể có Phó Chủ tịch Hội đồng quản lý. Số lượng, cơ cấu thành viên Hội đồng quản lý của từng đơn vị sự nghiệp công lập cụ thể do người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập quyết định.
Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản lý không quá 05 năm.
Từ 15/3, 7 vị trí công tác định kỳ chuyển đổi lĩnh vực KH&CN tại địa phương
Thông tư 20/2022/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định Danh mục và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác trong cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ tại chính quyền địa phương có hiệu lực từ ngày 15/3/2023.
Thông tư nêu rõ, danh mục vị trí công tác định kỳ chuyển đổi lĩnh vực KH&CN tại địa phương bao gồm:
1- Quản lý các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ:
+ Tiếp nhận, xử lý hồ sơ xác định, đặt hàng, tuyển chọn, giao trực tiếp, đánh giá, nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ;
+ Tiếp nhận, xử lý hồ sơ thẩm định kinh phí nhiệm vụ khoa học và công nghệ;
+ Kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện và sau nghiệm thu các nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước;
+ Thẩm định cấp giấy chứng nhận đăng ký kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
2- Thẩm định, giám định công nghệ dự án đầu tư và chuyển giao công nghệ:
+ Thẩm định, giám định công nghệ dự án đầu tư theo quy định pháp luật;
+ Thẩm định cấp giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ, cấp giấy chứng nhận đăng ký gia hạn, sửa đổi, bổ sung nội dung chuyển giao công nghệ.
3- Hoạt động an toàn bức xạ và hạt nhân:
+ Quản lý và thực hiện việc tiếp nhận khai báo, thẩm định an toàn, cấp giấy phép, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, cấp lại giấy phép tiến hành công việc bức xạ sử dụng thiết bị X-quang chẩn đoán trong y tế;
+ Cấp chứng chỉ nhân viên bức xạ cho người phụ trách an toàn tại cơ sở X- quang chẩn đoán trong y tế.
4- Hoạt động sở hữu trí tuệ
Thẩm định cấp, cấp lại, thu hồi Giấy chứng nhận tổ chức giám định sở hữu công nghiệp theo quy định pháp luật.
5- Hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng:
+ Thẩm định hồ sơ cấp giấy chứng nhận, giấy xác nhận, giấy phép trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng theo quy định;
+ Thẩm định cấp giấy xác nhận đăng ký lĩnh vực hoạt động xét tặng giải thưởng chất lượng sản phẩm, hàng hóa của tổ chức, cá nhân; Thẩm định hồ sơ đăng ký tham dự Giải thưởng chất lượng quốc gia của tổ chức, doanh nghiệp bước Hội đồng sơ tuyển.
6- Thẩm định, cấp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung, thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ; Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Thẩm định hồ sơ thành lập tổ chức khoa học và công nghệ; cấp giấy chứng nhận hoạt động văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức khoa học và công nghệ.
7- Hợp tác, trao đổi khoa học và công nghệ có yếu tố nước ngoài.
Thông tư nêu rõ thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với công chức, viên chức trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc nêu trên là từ đủ 02 năm đến 05 năm.
Danh mục, thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác trong lĩnh vực thông tin và truyền thông
Thông tư 01/2023/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) quy định danh mục và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác trong lĩnh vực TT&TT tại chính quyền địa phương có hiệu lực từ 17/3/2023.
Thông tư nêu rõ danh mục vị trí công tác định kỳ chuyển đổi lĩnh vực TT&TT tại chính quyền địa phương bao gồm lĩnh vực: Báo chí; Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử; Xuất bản, In và Phát hành; Bưu chính; Công nghệ thông tin.
Thông tư quy định, thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác là từ đủ 03 năm (36 tháng) đến 05 năm (đủ 60 tháng) không bao gồm thời gian tập sự, thử việc.
Thời điểm tính thời hạn chuyển đổi vị trí công tác là thời điểm có văn bản điều động, bố trí, phân công nhiệm vụ của cấp có thẩm quyền theo quy định.
10 vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý ngành Ngân hàng
Thông tư 21/2022/TT-NHNN hướng dẫn vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý và chức danh nghề nghiệp chuyên ngành trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực Ngân hàng có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/03/2023.
Thông tư nêu rõ 10 vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực Ngân hàng gồm:
- Chủ tịch Hội đồng quản lý;
- Thành viên Hội đồng quản lý;
- Tổng giám đốc;
- Phó Tổng giám đốc;
- Trưởng phòng và tương đương;
- Phó Trưởng phòng và tương đương;
- Giám đốc chi nhánh;
- Phó giám đốc chi nhánh;
- Trưởng phòng và tương đương trực thuộc Chi nhánh;
- Phó trưởng phòng và tương đương trực thuộc Chi nhánh.
Theo https://baochinhphu.vn/

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ĐOÀN

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây